Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2

docx 34 trang sangkienhay 19/10/2023 2420
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kỹ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2
 Sáng kiến kinh nghiệm
Rèn kỹ năng nói trong giờ dạy
 Tiếng Việt cho học sinh lớp 2 Chính vì vậy, để sau này lớn lên các em có một nhân cách tốt, biết nói năng lễ phép, 
lịch sự, biết nói lời biểu cảm trong giao tiếp và mạnh dạn khi giao tiếp với mọi người 
xung quanh thì ngay từ các lớp đầu cấp của tiểu học chúng ta cần rèn cho học sinh kĩ năng 
nói trong giờ dạy Tiếng Việt là điều rất quan trọng mà chúng ta cần phải thực hiện.
 Hiện nay chúng ta đang thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học là lấy học sinh 
làm trung tâm, phát huy tính sáng tạo, tích cực học tập của học sinh. Theo tôi môn Tiếng 
Việt là môn học rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự giác trong luyện tập để rút kinh 
nghiệm, tự chiếm lĩnh kiến thức qua thực hành dưới sự chỉ dẫn, điều hành của giáo viên. 
Qua thực tế giảng dạy, theo bản thân nhận thấy “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt 
cho học sinh lớp 2” là điều hết sức cần thiết và quan trọng.
 Ý thức được vai trò của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm trong giao tiếp, bản thân 
đã lựa chọn và nghiên cứu những kinh nghiệm giảng dạy môn Tiếng Việt qua việc “Rèn 
kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho HS lớp 2” làm đề tài sáng kiến kinh nghiệm 
của mình.
 II/ Mục đích nghiên cứu
 Trước hết, bản thân tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ: Mạnh dạn hơn 
trong giao tiếp, tiếp đó là rèn cho học sinh những kĩ năng, thói quen dùng lời nói biểu 
cảm trong giao tiếp, cũng như sự bày tỏ quan điểm nhận thức của bản thân, trước những 
vấn đề mà bản thân các em phải tự bộc lộ qua những lời nói, lời phát biểu trả lời theo nội 
dung bài học và sự giao tiếp với mọi người xung quanh ở trường, ở lớp.
 III/ Giới hạn phạm vi nghiên cứu
 Nghiên cứu về khả năng nói của học sinh lớp 2 trong phạm vi khối 2 Trường tiểu lời nội dung bài học và sự giao tiếp với bạn bè, thầy cô ở trường và giao tiếp với mọi 
người xung quanh.
 Bản thân đưa ra những giải pháp nhằm rèn luyện cho các em kĩ năng sử dụng từ 
ngữ đúng nhằm phát triển khả năng diễn đạt của các em. riêng cho mỗi dạng, nhưng đối với học sinh tiểu học (nhất là học sinh yếu) thì rất dễ lẫn lộn. 
Hơn nữa học sinh trong lớp có rất nhiều em là người miền Bắc nên việc phân biệt các âm 
đầu như l/n, tr/ch hoặc s/x là rất khó.
 Do sự phức tạp của chữ quốc ngữ: nguyên âm /ă/ lại được ghi bằng chữ a trong các 
vần ay, au, các nguyên âm đôi /ie, ươ, uô/ lại được ghi bằng các dạng iê, yê, ia, ya; ươ, ưa; 
uô, ua (mía - khuya, tiền - thuyền, sữa - thương, mua - muôn); âm đệm /u/ lại được ghi bằng 
2 con chữ u và o (ví dụ: huệ, hoa).
 Người miền Nam phát âm hoàn toàn không phân biệt các vần có âm cuối n/ng/nh và 
t/c/ch, mà số chữ mang các vần này không ít. Mặt khác hai bán nguyên âm cuối /i, u/ lại 
được ghi bằng 4 con chữ i/y (trong: lai/lây), u/o (trong: sau/sao) do đó lỗi về âm cuối là lỗi 
khó khắc phục đối với học sinh khu vực phía Nam.
 Thấy được vai trò và tầm quan trọng của việc sử dụng ngôn ngữ biểu cảm, lịch sự khi 
giao tiếp và với thực trạng của học sinh đã nêu trên. Bản thân đã nghiên cứu và lựa chọn 
biện pháp “Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh lớp 2”.
II/ CƠ SỞ LÍ LUẬN
Tầm quan trọng của lời nói trong giao tiếp
 Ngày xưa, ông bà ta rất coi trọng việc giao tiếp, ngôn ngữ, lời nói là trao đổi thông tin, 
đóng vai trò biểu hiện tình cảm, qua lời nói thể hiện văn hoá, tính nết của con người. Do vậy 
cần phải giáo dục, rèn luyện lời nói của các em ngay từ nhỏ, từ các lớp đầu cấp Tiểu học để 
sau này các em có thói quen cư xử đúng mực, lịch sự trong khi giao tiếp.
 Việc giáo dục lời nói từ xa xưa ông bà ta rất chú trọng. Ông cha ta thường dạy con, Sau khi phân loại học sinh bản thân chọn lọc những câu hỏi, câu gợi mở sao cho phù 
hợp với từng đối tượng học sinh, để các em phát huy hết khả năng giao tiếp của mình trong 
phần luyện nói trong môn Tiếng Việt cũng như các môn học khác trong chương trình.
 2. Phương pháp phân tích - tổng hợp
Từ phương pháp quan sát, thu thập được những thông tin, bản thân đã xử lí những thông tin 
ấy bằng cách phân tích, tổng hợp với những Biện pháp thực hiện như sau
 Bản thân tiến hành phân chia học sinh theo nhiều nhóm trình độ khác nhau.
 Nhóm 1: Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc, khi giao tiếp biết thể hiện lời nói 
biểu cảm, lịch sự. Những học sinh này tôi phân làm nhóm trưởng, những nhân vật nòng cốt 
trong các tiểu phẩm của các tiết Tiếng Việt mà học sinh rèn luyện kĩ năng nói trên lớp.Những 
em này là người dẫn chương trình trong các giờ luyện nói trên lớp.
 Nhóm 2: Nhóm học sinh có lời nói tương đối rõ ràng, trôi chảy, lịch sự nhưng chưa thể 
hiện được lời nói tình cảm trong giao tiếp.
 Nhóm 3: Nhóm học sinh nhút nhát, ngại giao tiếp, khả năng giao tiếp kém, ít khi sử 
dụng lời nói lịch sự, tình cảm trong giao tiếp, nói năng cộc lốc, chưa diễn đạt trọn ý, trọn 
câu. Sau khi quan sát theo dõi khả năng giao tiếp của học sinh, tôi thống kê chất lượng đầu 
năm như sau:
 Bảng thống kê khả năng nói, giao tiếp của học sinh lớp 2A2 đầu năm học 2012 - 2013. 
Tổng số học sinh: 30 em mình.
 Bên cạnh đó, bản thân thường xuyên khen ngợi, tuyên dương và có những phần thưởng 
nho nhỏ như cây bút, quyển vở để động viên khuyến khích cho những em có sự tiến bộ. Còn 
những em chưa tiến bộ bản thân không phê bình các em mà bản thân động viên, giúp đỡ và 
áp dụng mọi biện pháp hợp lí nhất để giúp các em tiến bộ dần trong khi luỵên nói và giao 
tiếp.
 Sau khi áp dụng biện pháp này bản thân thấy các em tiến bộ rõ rệt. Những em giỏi đã 
phát huy hết được vai trò của mình. Những em yếu, kém mạnh dạn hơn trong giao tiếp, biết 
nói năng lịch sự, có lời nói biểu cảm trong khi giao tiếp.
 3/ Phương pháp thực hành luyện tập
 Là một phương pháp chính giúp các em được thường xuyên thực hành luyện nói trong 
tất cả các tiết học Tiếng Việt. Nhờ đó, khả năng giao tiếp các em ngày được nâng cao và 
hoàn thiện hơn. Rèn cho các em nói sao cho trôi chảy, mạch lạc, lời nói thể hiện tình cảm và 
lịch sự.
 Biện pháp thực hiện:
 Học sinh được rèn kĩ năng nói qua các bài tập thực hành trong SGK Tiếng việt 2.
 * Bài tập rèn luyện cho học sinh phát âm theo chuẩn.
 Loại bài tập này bản thân thường chú ý đến những đối tượng học sinh phát âm chưa 
chuẩn các tiếng, từ khó trong phần rèn đọc từ khó của phân môn Tập Đọc ở tiết 1.
 Rèn cho các em phát âm chưa chuẩn, các em biết phát âm chuẩn, chính xác từ đó các rõ ràng và đúng . Tiếp đó các nhóm cử đai diện và thi trước lớp.
 Cả lớp và giáo viên nhận xét tuyên dương những nhóm đọc đúng, rõ ràng và đọc đúng 
tốc độ qui định.
 Giáo viên đưa ra những đề bài gợi ý để học sinh có thể tìm thêm hoặc tự suy nghĩ ra để 
tham gia vào cuộc thi cùng các bạn.
 *Ví dụl: Đọc phân biệt các tiếng có âm đầu dễ lẫn lộn
 a/ Phân biệt s/x
 - Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm.
 - Cây xanh thì lá cũng xanh
 Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
 (Tục ngữ)
 - Bầu trời xám xịt như sà xuống sát tận chân trời. Sấm rền vang, chớp loé sáng. Cây 
 sung già trước cửa sổ trút lá theo trận lốc, trở lại những cành xơ xác, khẳng khiu.
 b/ Phân biệt d/gi
 Dung dăng dung dẻ
 Dắt trẻ đi chơi
 Đến ngõ nhà giời
 Lạy cậu, lạy mợ
 Cho cháu về quê Đến khi nó lớn, nó quện nhau đi
 Tò vò ngồi khóc tỉ ti
 Nhện ơi, nhện hỡi, nhện đi đằng nào?
 b/ Phân biệt vần an/ ang
 Một năm trời hạn hán
 Suối cạn, cỏ héo khô
 Lấy gì nuôi đôi bạn
 Chờ mưa đến bao giờ.
 Bê Vàng đi tìm cỏ
 Lang thang quên đường về
 Dê Trắng thương bạn quá
 Chạy khắp nẻo tìm Bê.
 c/ Phân biệt ươn/ương
 Cá không ăn muối cá ươn
 Con cãi cha mẹ, trăm đường con hư.
 *Ví dụ4: Loại bài tập xử lý tình huống
 Loại bài tập này giúp các em phát triển ngôn ngữ nói, luyện tập cho học sinh các nghi 
thức lời nói. Đặc biệt chương trình SGK đã tạo điều kiện cho học sinh lớp 2 được thực hành 
rất nhiều loại bài tập này. Trong các phần luyện nói ở các bài Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm uống.
 HS đại diện cho từng nhóm lần lượt lên chơi trò đóng vai ở mỗi tình huống đã cho 
trong khoảng 1 phút.
 - 2 HS đại diện cho 1 nhóm tham gia chơi: 1em đóng vai bạn gái đang xách một chiếc 
túi to bước đi chậm chạp và nặng nhọc; 1 em đóng vai bạn trai đến bên bạn gái và nói: “Bạn 
để mình xách đỡ cho nào!” rồi đỡ chiếc túi từ tay bạn gái. Bạn gái nói: “Cảm ơn bạn, bạn tốt 
quá !”. Bạn trai cười tươi và nói: “Có gì đâu, việc nhỏ thôi mà!”.
 Sau khi đại diện cả 4 nhóm đã chơi xong về một tình huống, cả lớp cùng bình chọn 
lời nói đúng, hay. Nếu một vai nói đúng 1 câu sẽ được 1 điểm, nói đúng 2 câu sẽ được 2 
điểm. Tổng số điểm của hai vai là số điểm của mỗi nhóm trong từng tình huống chơi.
 Sau mỗi tình huống, giáo viên ghi điểm cho từng nhóm lên bảng lớp. Khi các nhóm đã 
chơi đóng vai ở tất cả các tình huống thì giáo viên cộng điểm và công bố nhóm có điểm cao 
nhất để khen thưởng.
 *Ví dụ 5: Loại bài tập kể chuyện
 Học sinh kể chuyện đã đọc, đã nghe, kể về những người xung quanh hoặc bản thân.
 Bài tập này áp dụng ở môn Tiếng Việt trong bài có nội dung kể chuyện, cần hướng dẫn 
học sinh có giọng kể thích hợp và diễn xuất theo vai, học sinh nắm nội dung câu chuyện định 
kể.
 Ví dụ: Phân vai dựng lại câu chuyện.
 Giáo viên chọn bài tập ở tiết Kể chuyện, yêu cầu học sinh phân vai dựng lại câu chuyện 
trong SGK Tiếng việt 2. dương, khen thưởng.
 Với biện pháp này bản thân thường xuyên thay đổi học sinh để đóng các vai trong 
từng câu chuyện. Nhờ vậy, những em nhút nhát, sợ sệt, ngại giao tiếp trước tập thể đã có 
sự tiến bộ, mạnh dạn trong giao tiếp.
 Biện pháp:
 GV cho học sinh nhận vai, học thuộc lời thoại, nắm vững yêu cầu thể hiện tình cảm, 
thái độ (qua ánh mắt, cử chỉ, động tác, giọng nói ...) của nhân vật trong câu chuyện.
 GV hướng dẫn các nhân vật tập đối thoại sao cho thuộc lời và phối hợp với nhau một 
cách nhịp nhàng, tự nhiên.
 GV hướng dẫn cách diễn xuất cho từng nhân vật theo “kịch bản” đã chuẩn bị, trình 
diễn thử với những đạo cụ và bài trí khung cảnh nêu trong kịch bản.
 HS trình diễn “màn kịch ngắn” trước lớp; giáo viên cho cả lớp nhận xét, bình chọn 
những HS diễn xuất giỏi để biểu dương, khen thưởng.
 *Ví dụ 6: Loại bài tập luyện kĩ năng hội thoại
 Đây là loại bài tập học sinh tham gia trò chuyện với nhau, trả lời phỏng vấn, cùng nhau 
tranh luận về một đề tài theo nội dung bài học của mình, một câu có nội dung đề nghị bạn 
trả lời đúng đồ dùng cho mình.
 Ví dụ: Đóng vai chúc mừng nhau (Đáp lời chia vui)
 Chuẩn bị:
 3 hình vẽ (hoặc tranh ảnh) minh hoạ 3 tình huống khác nhau có xuất hiện lời chúc mừng đến tình huống cuối như đã gợi ý. Khi hai học sinh trong nhóm chơi xong ở tình huống đầu 
thì nhóm lại cử hai học sinh chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử người chơi như vậy ở 
cả ba tình huống.
 GV làm trọng tài, 2 học sinh giúp giáo viên làm việc.
 4. Phương pháp kết hợp với phụ huynh học sinh
 Ngoài việc rèn luyện cho các em trong các tiết học luyện nói của môn Tiếng Việt trên 
lớp,bản thân thường xuyên gặp gỡ phụ huynh học sinh để trao đổi những tiến bộ
 và những hạn chế của các em. Bàn bạc tìm ra những biện pháp thích hợp để phụ huynh 
bày vẻ và rèn cho học sinh biết giao tiếp lịch sự, đúng mực khi ở nhà. Biện pháp này được 
phụ huynh đồng tình ủng hộ và đem lại hiệu quả rất cao.
IV/ KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
 1. Kết quả
 Trong năm học này, bằng các biện pháp nói trên, bản thân đã tổ chức cho học sinh trong 
lớp thực hiện tốt những yêu cầu luyện nói đã đề ra, làm cho các buổi học đạt hiệu quả ngày 
càng cao hơn. Những học sinh chưa mạnh dạn, thiếu tự tin khi giao tiếp với mọi người và 
khi nói trước tập thể đông người ngày một giảm.
Từ những học sinh khả năng nói chưa tốt, bây giờ các em đã có nhiều tiến bộ về mọi mặt. 
Kết quả học tập các môn có sự thay đổi rõ rệt. Nhiều học sinh đã chủ động, tích cực, hăng 
hái phát biểu ý kiến xây dựng bài. Việc học bài và chuẩn bị bài ở nhà được các em thực hiện 
đầy đủ.
 Trong tất cả các giờ học và giờ luyện nói trên lớp học sinh đã biết trả lời các câu hỏi 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_ren_ky_nang_noi_trong_gio_day_tieng_vi.docx