Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2

doc 23 trang sangkienhay 12/12/2023 2920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nói trong giờ dạy Tiếng Việt cho học sinh Lớp 2
 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI
 TRƯỜNG TIỂU HỌC CHU VĂN AN
 –––––––––––––––––––––––––––––
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
RÈN KỸ NĂNG NÓI CHO HỌC SINH LỚP 2 
 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC
 Lĩnh vực/môn : Tiếng Việt
 Tên tác giả : Trịnh Thị Phú Hà
 Giáo viên cơ bản : Lớp 2
 Năm học 2011 - 2012 Phân môn Tập viết chủ yếu rèn kĩ năng viết chữ.
 Phân môn Kể chuyện rèn kĩ năng nói, nghe và đọc. Trong giờ kể chuyện, 
học sinh kể lại những câu chuyện phù hợp với chủ điểm mà các em đã học 
(Trong sách SGK hoặc trong các sách khác), nghe thầy, cô hoặc bạn kể rồi kể lại 
một câu chuyện bằng lời của mình, trả lời câu hỏi hoặc ghi lại những chi tiết 
chính của câu chuyện đó.
 Phân môn Tập làm văn rèn cả 4 kĩ năng nghe, nói, viết và đọc. Trong giờ 
Tập làm văn, học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm bài và làm các bài 
tập (nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu thành của văn bản.
 Nhận biết được tầm quan trọng của việc đổi mới SGK lớp 2 và môn Tiếng 
Việt ở lớp 2, là một trong những giáo viên được tiếp cận với chương trình và 
SGK mới, tôi vừa dạy vừa nghiên cứu để tìm ra những sáng kiến mới nhằm 
nâng cao nghiệp vụ chuyên môn và mong được góp sức giúp cho công tác giáo 
dục ngày càng phát triển và đổi mới.
 Theo tinh thần đổi mới phương pháp dạy và học, Tiếng Việt là môn học 
rất cần phải tạo điều kiện cho học sinh tự giác tập luyện và rút kinh nghiệm qua 
thực hành dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Trong kinh nghiệm này, tôi xin đề 
cập đến vấn đề: “Rèn kĩ năng nói cho học sinh lớp 2”
 Không biết từ bao giờ, trải qua hang ngàn năm tiến hóa của loài người, 
ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò 
biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hóa, 
tính cách con người.
 Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi 
trọng:
 “Học ăn, học nói, học gói, học mở”
 “Lời nói không mất tiền mua,
 Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”
 Để đánh giá một con người, chúng ta cần phải có sự thử thách qua giao 
tiếp hàng ngày với họ:
 “Chim khôn thử tiếng, người ngoan thử lời” NỘI DUNG
 PHẦN 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1 Mục tiêu, ý nghĩa:
 Tìm ra những biện pháp phù hợp nhằm giúp trẻ: trước hết mạnh dạn hơn 
trong giao tiếp, tiếp đó là rèn những kỹ năng, thói quen dùng lời nói biểu cảm 
trong giao tiếp, trong các giờ luyện nói của các tiết Tiếng Việt trong chương 
trình SGK lớp 2 hiện hành.
 Nghiên cứu thực trạng trẻ lớp 2 hiện nay có kiến thức, ý thức ra sao trong 
giao tiếp hàng ngày cũng như sự bảy tỏ quan điểm nhận thức của bản thân, trước 
những vấn đề mà trẻ phải tự bộc lộ bản thân qua những lời nói, lời phát biểu trả 
lời theo nội dung bài học và sự giao tiếp với mọi người xung quanh ở trường, ở 
lớp.
 Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học môn 
Tiếng Việt lớp 2 theo hướng lấy học sinh làm trung tâm.
1.2 Chuẩn yêu cầu cần đạt
 Kĩ năng nói của học sinh lớp 2 cần đạt các yêu cầu sau:
 - Nói thành câu, rõ ràng, mạch lạc
 - Bước đầu biết chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, chia tay, mời, nhờ, yêu cầu, chia 
vui, chia buồnđúng ngữ điệu và đúng nghi thức giao tiếp ở gia đình, trường 
học, nơi công cộng.
 - Biết giới thiệu đơn giản về bản thân, gia đình, lớp học, bạn bè theo mục 
đích nhất định
 - Kể lại được một đoạn truyện đã nghe, đã đọc.
 - Nói những lời nói thể hiện hành vi thanh lịch, văn minh. PHẦN 2: THỰC TRẠNG
 Để nắm được khả năng nói của học sinh, khi nhận lớp tôi đã chủ động 
gần gũi giao tiếp với các em và quan sát những tình huống giao tiếp tự nhiên. 
Trong các tình huống giao tiếp tôi cố gắng đưa vào những nghi thức của lời nói 
như chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, đồng ý, không đồng ý, từ chốiđể xem phản ứng 
của học sinh. Tôi thấy đa số các em chưa biết đưa ra lời nói phù hợp với những 
tình huống giao tiếp.
 Thực tế hiện nay do các em ít được tiếp xúc với xung quanh do bố mẹ 
bận đi làm và vì vậy vốn hiểu biết về các quy tắc giao tiếp của các em rất yếu. 
Đồng thời nhiều gia đình do cha mẹ bàn giao con ở nhà cho người giúp việc đến 
từ các địa phương nên các em cũng bị ảnh hưởng trong cách nói, cách phát âm 
của những địa phương khác nhau. Các em chưa biết cách diễn đạt ý của mình 
sao cho lịch sự khi giao tiếp với bạn bè hay mọi người xung quanh.
 Trong giao tiếp hàng ngày các em rất ít khi nói lời khen ngợi, cảm ơn nên 
trong bài học các em còn lúng túng, ngại ngùng khi thực hành nói lời cảm ơn, 
khen ngợi.
 Do các tiết học có thời lượng rất ngắn nên GV không thể cho nhiều học 
sinh được thực hành nhiều các nghi thức giao tiếp.
 Hiện tại, một số học sinh ở địa bàn Thụy Khuê khi nói các em vẫn sai 
nhiều lỗi phát âm và một số học sinh do bố mẹ xuất thân ở tỉnh ngoài nên cũng 
ảnh hưởng lối phát âm của địa phương. a. Nhóm học sinh có lời nói lưu loát, mạch lạc, biết thể hiện lời nói 
biểu cảm trong giao tiếp. Đây chính là những nhóm trưởng, những người dẫn 
chương trình trong các giờ luyện nói trên lớp, những nhân vật nòng cốt trong các 
tiểu phẩm của các tiết Tiếng Việt mà học sinh tham gia rèn luyện kĩ năng nói 
trên lớp.
 b. Nhóm học sinh có lời nói tương đối trôi chảy, rõ ràng tuy nhiên 
chưa thể hiện được lời nói biểu cảm trong giao tiếp một cách rõ nét.
 c. Nhóm học sinh ngại giao tiếp, khả năng giao tiếp kém, hầu như 
không biết sử dụng lời nói biểu cảm trong giao tiếp.
 Sau khi phân tích đặc điểm cũng như khả năng giao tiếp của từng học sinh 
trong lớp, giáo viên tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh sao cho phân bố 
đều khắp 3 đối tượng học sinh nêu trên trong các tổ, các nhóm.
 Ưu điểm của biện pháp này là: Sự tương trợ lẫn nhau trong quá trình học 
tập của học sinh là việc làm hết sức bổ ích và mang tính khả quan. Như ta từng 
nói: “Học thày không tày học bạn”.
 Sự phấn khích trong quá trình học tập, đua thầy, đua bạn sẽ giúp trẻ mạnh 
 dạn, năng động hơn rất nhiều trong quá trình rèn nói.
 Sự cổ vũ động viên của các bạn trong nhóm, trong tổ sẽ giúp trẻ tự tin hơn 
trước lời phát biểu của mình.
 Qua phân tích tổng hợp khả năng giao tiếp của học sinh, tôi thống kê chất 
lượng học sinh đầu năm như sau:
 Khả năng Số học sinh Tỷ lệ %
 Nói tốt 28 HS 49,1%
 Tạm được 20 HS 35,1%
 Chưa được 9 HS 15,8%
3.3 Phương pháp 3: Phương pháp thực hành luyện tập:
 Với phương pháp này, học sinh thường xuyên được thực hành luyện tập 
“nói” trong tất cả các tiết học Tiếng Việt. Chính vì vậy khả năng giao tiếp của - Đưa ra từng “đề bài” để lần lượt từng người đọc to trước các bạn. Nhóm 
cử ra một người theo dõi và đánh giá, hoặc cả nhóm cùng nghe và thống nhất 
đánh giá kết quả đọc của bạn theo tiêu chuẩn: đọc nhanh, phát âm đúng (có thể 
cho điểm theo thang điểm 10 hoặc xếp loại theo 3 loại A, B, C)
 - Khi đọc xong tất cả “đề bài”, tính tổng số điểm của từng người (hoặc 
thống kê từng loại A, B,C) để chọn ra các bạn đạt giải nhất, nhì, ba. Cả nhóm có 
thể bình chọn để tuyên dương bạn nào sưu tầm (hoặc tự nghĩ ra) được nhiều câu 
hay, có nhiều tiếng mang cặp âm đầu, vần, thanh dễ lẫn.
 Ví dụ minh họa:
 Dựa vào những “đề bài” dưới đây, em có thể tìm thêm hoặc tự nghĩ ra 
những câu khác để đóng góp vào cuộc vui cùng các bạn.
 1. Đọc phân biệt các tiếng có âm đầu dễ lẫn
 a) Phân biệt l/n:
 + Lên non mới biết non cao
 Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy
 + Lúa nếp là lúa nếp làng
 Lúa lên lớp lớp long nàng lâng lâng
 + Anh ta leo lên lưng chim, chim đập cánh ba lần lên nổi.
 b) Phân biệt ch/tr
 Quê hương là cầu tre nhỏ
 Mẹ về nón là nghiêng che
 Quê hương là đêm trăng tỏ
 Hoa cau rụng trắng ngoài hè
 c) Phân biệt s/x
 Anh bộ đội xúng xính trong bộ quần áo mới, vai súng nom thật oai 
 vệ
 d) Phân biệt ac/at
 Ai ơi bưng bát cơm đầy
 Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần Trước hết để giờ luyện nói đạt kết quả tốt, giáo viên cần dành thời gian 
nghiên cứu nội dung của bài luyện nói để đưa ra những câu hỏi dẫn dắt sao cho 
phù hợp với nội dung bài cũng như phù hợp với đối tượng học sinh của mình. 
Với từng nội dung của bài luyện nói, giáo viên phải tìm tòi, sáng tạo đưa ra 
những tiểu phẩm, tình huống ngắn gọn phù hợp với nội dung bài để học sinh tập 
sắm vai thể hiện ngôn ngữ của bản thân thật tự nhiên, trong sáng
 Ví dụ: Trò chơi về Tập làm văn
 Chọn lời cho đúng
 Chuẩn bị:
 - 4 tranh ảnh (hoặc hình vẽ) minh họa 4 tình huống khác nhau có xuất hiện 
 lời cảm ơn và lời đáp lại lời cảm ơn:
 o Bạn gái xách 1 vật nặng, một bạn trai tới để xách giúp
 o Bạn trai chơi chạy đuổi bị vấp ngã, được một bạn khác đỡ dậy.
 o Trong giờ học vẽ, bạn gái cho bạn trai mượn chiếc bút chì.
 o Trên đường đi học về, bạn trai đưa cho bạn gái chai nước uống
 - 1 túi sách to đựng một số đồ vật, 1 chiếc bút chì màu, 1 chai nước uống
 - GV làm trọng tài, cử hai học sinh trong lớp giúp việc cho trọng tài.
 - Chia lớp thành 4 nhóm (mỗi nhóm ít nhất 8 học sinh); phân công 2 học 
 sinh tham gia 1 tình huống của trò chơi
 Cách tiến hành:
 1. Nêu cách chơi và tính điểm:
 Mỗi nhóm cử hai học sinh tham gia trò chơi ở tình huống thứ nhất. Học 
sinh tham gia trò chơi bước lên trước bảng lớp để các học sinh khác tiện theo 
dõi.
 Học sinh đại diện cho từng nhóm lần lượt lên chơi trò đóng vai ở mỗi tình 
huống đã cho trong khoảng 1 phút.
 Ví dụ: 2 học sinh đại diện cho hai nhóm tham gia chơi. Một em đóng vai 
bạn gái đang xách một cái túi to bước đi chậm chạp và nặng nhọc. Một em đóng 
vai bạn trai đến bên bạn gái và nói: “Bạn để mình xách đỡ cho nào!” rồi đỡ lấy - 3 hình vẽ (hoặc tranh ảnh) minh họa 3 tình huống khác nhau có xuất hiện 
lời chúc mừng và lời đáp lại lời chúc mừng:
 ▪ Bạn gái đội mũ, trên mũ có dòng chữ “Giải nhất viết chữ đẹp”; một 
 bạn tặng hoa chúc mừng bạn đoạt giải.
 ▪ Bạn trai tay ôm quả bong, đầu đội mũ, trên mũ có dòng chữ “Đội 
 vô địch”; một bạn gái đang bắt tay chúc mừng bạn đại diện cho đội vô 
 địch.
 ▪ Bạn trai đang đứng trên sân khấu để nhận giải thưởng. Sau lưng 
 bạn trai là tiêu đề cuộc thi: “Thi kể chuyện hay”; một mang hoa lên tặng 
 bạn trai được giải thưởng và nói lời chúc mừng.
 - 5 chiếc mũ làm bằng dải bìa quây tròn, trên có dòng chữ “Giải nhất viết 
chữ đẹp”
 - 5 quả bóng có dán băng giấy, trên băng giấy có ghi “Đội vô địch”.
 - 5 chiếc mũ làm bằng dải bì, quây tròn, trên có điểm 10 và chữ KC (kể 
chuyện)
 - Chia lớp thành nhiều nhóm, mỗi nhóm ít nhất 6 học sinh, sao cho cứ 2 
em đóng vai để thực hiện 1 tình huống được minh họa trong tranh.
 - GV làm trọng tài, 2 học sinh giúp trọng tài làm việc.
Cách tiến hành:
 1. Nêu cách chơi và tính điểm.
 Ví dụ: 2 học sinh đại điện cho nhóm 4 tham gia chơi. Một học sinh đóng 
vai bạn gái đoạt giải nhất trong kỳ thi “Viết chữ đẹp” của trường. Một học sinh 
đóng vai bạn gái lên chúc mừng bạn được giải và nói: “Chúc mừng bạn! Chúng 
tớ vui lắm!” rồi xiết chặt tay bạn. Bạn được giải đáp: “Cảm ơn các bạn!”.
 2. Thực hành trò chơi:
 - 3 nhóm học sinh chơi đóng vai lần lượt từ tình huống đầu đến tình huống 
cuối theo cách đã hướng dẫn. Khi 2 học sinh trong nhóm chơi xong ở tình huống 
đầu thì nhóm lại cử hai học sinh khác chơi ở tình huống tiếp theo. Tiếp tục cử 
người chơi như vậy ở 3 tình huống.

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_noi_trong_gio_day_tieng_vi.doc