Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng nói tiếng Việt trong giờ Kể chuyện cho học sinh Lớp 2 vùng dân tộc
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng nói tiếng Việt trong giờ Kể chuyện cho học sinh Lớp 2 vùng dân tộc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng nói tiếng Việt trong giờ Kể chuyện cho học sinh Lớp 2 vùng dân tộc
UBND TỈNH QUẢNG NAM TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM KHOA TIỂU HỌC – MẦM NON ------------- Học phần: Phương pháp dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc Tiểu học Đề tài: MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG NÓI TIẾNG VIỆT TRONG GIỜ KỂ CHUYỆN CHO HỌC SINH LỚP 2 VÙNG DÂN TỘC Giáo viên hướng dẫn: Th.s.Võ Thị Hoa Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Minh Quyền Lớp: ĐHGD Tiểu học - K08 Tam Kỳ, tháng 11 năm 2011 Một số biện pháp rèn kĩ năng nói tiếng Việt cho học sinh lớp 2 vùng dân tộc A. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Bậc tiểu học là nền móng đầu tiên để giúp con người tồn tại và phát triển. Đặc biệt là môn Tiếng Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các phân môn ở trường, nó hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu vá các môn học khác. Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ và cung cấp cho trẻ những tri thức cần thiết. Kể chuyện là phân môn có vị trí đặc biệt trong dạy học tiếng mẹ đẻ, trong hoạt động giao tiếp. Kể chuyện vận dụng một cách tổng hợp sự hiểu biết về đời sống và tạo điều kiện để học sinh rèn luyện một cách tổng hợp các kĩ năng tiếng Việt như nghe, nói, đọc, viết trong giao tiếp chương trình. Thông qua Kể chuyện, các em được rèn không chỉ kĩ năng nghe mà còn rèn kĩ năng nói đúng, nói hay, nói rõ ràng, mạch lạc và nói một cách truyền cảm. Mặc dù trong Chương trình Tiếng Việt ở Tiểu học không có phân môn dành riêng cho phát triển kĩ năng nói nhưng phân môn Kể chuyện có nội dung phát triển ngôn ngữ nói. Nói là một hoạt động quan trọng và lời nói phương tiện giao tiếp chủ yếu và quan trọng trong cuộc sống. Không chỉ vậy, lời nói còn là sự thể hiện tưu duy dựa vào phương tiện ngôn ngữ (từ, cụm từ, câu). Muốn nói tốt, ngoài yêu cầu phát âm còn phải vốn từ vựng, câu làm chất liệu để nói và khả nghe, nhận diện ngôn ngữ khi giao tiếp. Tiếng Việt là tiếng phổ thông, ngôn ngữ chính thức được dùng trong nhà trường, cũng là phương tiện quan trọng để giao tiếp và chiếm lĩnh tri thức. Đối với học sinh dân tộc, tiếng Việt không phải là tiếng mẹ đẻ mà là ngôn ngứ thứ hai trong giao tiếp. Chương trình dạy Tiếng Việt, phân môn Kể chuyện cho học sinh dân tộc theo Chương trình mà Bộ đã quy định. Mặc dù hiện nay, nhiều tỉnh đã tổ chức hoạt động dạy tiếng Việt cho trẻ em dân tộc trước khi bước vào lớp 1 nhưng con số đó cũng rất khiêm tốn. Khi vào lớp 1 các em sẽ được học các âm, vần, các dấu tiếng Việt giống như trẻ em Kinh. Có thể khẳng định một điều: Đi học là một bước ngoặc lớn trong đời của trẻ và càng quan trọng đối với trẻ em ở vùng dân tộc thiểu số. Bất cứ một phân môn, môn học nào cũng rèn luyện kĩ năng nghe, nói, đọc, viết cho học sinh. Trong đó giờ học Kể chuyện là một điều kiện thích hợp để rèn kĩ năng giao tiếp (nghe – nói) bằng tiếng Việt cho các em dân tộc. Lớp 2 là lớp học kế thừa của lớp 1, sửa sai GVHD: Th.s.Võ Thị Hoa - 3 - SVTH: Nguyễn Thị Minh Quyền Một số biện pháp rèn kĩ năng nói tiếng Việt cho học sinh lớp 2 vùng dân tộc 5. Nhiệm vụ nghiên cứu - Tìm hiểu thực trạng dạy - học dạy học Kể chuyện và rèn luyện kĩ năng giao tiếp cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Trà Bui huyện Bắc Trà My. - Tìm ra nguyên nhân dẫn đến hạn chế của học sinh dân tộc lớp 2 khi nói tiếng Việt. - Đưa ra một số biện pháp thiết thực để khắc phục. 6. Phương pháp nghiên cứu 6.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu. 6.2. Phương pháp điều tra. 6.3. Phương pháp phỏng vấn GVHD: Th.s.Võ Thị Hoa - 5 - SVTH: Nguyễn Thị Minh Quyền Một số biện pháp rèn kĩ năng nói tiếng Việt cho học sinh lớp 2 vùng dân tộc cách tổng hợp sự hiểu biết về đời sống và tạo điều kiện để học sinh rèn luyện một cách tổng hợp các kĩ năng tiếng Việt như nghe, đọc, nói trong hoạt động giao tiếp. Khi học sinh kể chuyện là các em đang tái sản sinh hay sản sinh một tác phẩm nghệ thuật ở dạng lời nói. Vì truyện là một tác phẩm văn học nên kể chuyện có được cả sức mạnh của văn học. Truyện có khả năng bồi dưỡng tâm hồn trẻ thơ. Sự hiểu biết về cuộc sống, về con người, tâm hồn, tình cảm của các em sẽ nghèo đi biết bao nhiêu nếu không có phân môn học Kể chuyện trong trường học. Phân môn Kể chuyện trong chương trình lớp 2 có những nhiệm vụ cơ bản sau: - Phát triển kĩ năng nghe, nói tiếng Việt cho học sinh: kĩ năng đối thoại và độc thoại. + Kĩ năng độc thoại: Được rèn luyện thông qua các bài tập kể lại câu chuyện đã được nghe, đọc bằng lời của của các em. + Kĩ năng đối thoại: Tập dựng lại câu chuyện đã học theo vai, sử dụng các yếu tố phụ trợi trong giao tiếp (nét mặt, cử chỉ, điệu bộ). - Củng, cố mở rộng vốn từ, phát triển tư duy hình tượng và tư duy logic, nâng cao sự hiểu biết của các em về đời sống thông qua những câu chuyện có nội dung phong phú. - Bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp, trao dồi hứng thú đọc và kể chuyện, đem lại niềm vui tuổi thơ cho học sinh trong hoạt động học tập. 3. Những hình thức phát triển ngôn ngữ nói trong chương trình Tiếng Việt ở tiểu học - Luyện nói (lớp 1): Luyện nói theo chủ đề (kể chuyện); luyện nói theo câu có tiếng chứa âm vần đã học; hội thoại theo nội dung bài đọc hoặc về một chủ đề đợn giản, gần gủi. - Rèn luyện các nghi thức lời nói trong giao tiếp thông thường: chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, yêu cầu - Thực hành trao đổi, trò chuyện với người khác: họp lớp, hopk Đội; giải thích vấn đề đang tao đổi; tán thành, bác bỏ hay bảo vệ kiến - Nói thành bài: giới thiệu về bản thân, gia đình, bạn bè; thông báo tin ngắn; thuật lại câu chuyện hoặc sự việc đã nghe, đã chứng kiến - Kể chuyện: Kể chuyện đã nghe, đã đọc theo lời của mình; kể chuyện phân vai. 4. Đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 2 vùng dân tộc. Học sinh lớp 2 ghi nhớ một cách máy móc, chưa có khả năng phân tích tự giác. Khả năng phân tích các hiện tượng trong tập luyện, lao động, sinh hoạt còn GVHD: Th.s.Võ Thị Hoa - 7 - SVTH: Nguyễn Thị Minh Quyền Một số biện pháp rèn kĩ năng nói tiếng Việt cho học sinh lớp 2 vùng dân tộc em là công việc rất cần thiết, phần lớn các em khi tới trường chưa biết hoặc biết chút ít tiếng Việt, phát âm chưa chuẩn, hiểu nghĩa không chính xác. Ngôn ngữ - tiếng nói từ tác dụng sơ khai là trao đổi thông tin đã đóng vai trò biểu hiện tình cảm, trạng thái tâm lý và là một yếu tố quan trọng biểu lộ văn hoá, tính cách con người. Việc giáo dục lời nói trong giao tiếp từ xưa đã được ông cha ta rất coi trọng. Mặt khác việc giao tiếp, ứng xử khéo léo cũng giúp chúng ta thành công về nhiều lĩnh vực. Với trẻ em, lứa tuổi đang hình thành nhân cách, ngay từ khi các em còn rất nhỏ, chúng ta đã rất chú trọng: “Trẻ lên ba, cả nhà học nói” Dạy tiếng Việt cho học sinh vùng dân tộc không có nghĩa là chỉ dạy các em kĩ năng đọc, viết, nghe mà dạy các em biết sử dụng những lời nói biểu cảm trong giao tiếp là một mảng vô cùng quan trọng. Chương II. Thực trạng rèn luyện kĩ năng nói tiếng Việt trong giời Kể chuyện cho học sinh lớp 2 trường Tiểu học Trà Bui huyện Bắc Trà My. 1. Vài nét về trường Tiểu học Trà Bui huyện Bắc Trà My. Trường Tiểu học Trà Bui thuộc xã Trà Bui, một xã nằm về phía tây nam huyện Bắc Trà My, có diện tích tự nhiên hơn 17.325ha với gần 5.240 dân. Ngoài thôn 1 ở bên này sông Tranh, việc đi lại tương đối thuận lợi vì có tuyến đường ĐT.616 chạy ngang qua, 5 thôn còn lại đều ở bên kia sông Tranh và bị xé lẻ bởi các sông Tam Lang, Tam Lung, suối Dê, suối Trường tiểu học Trà Bui tại có 245 em tới lớp, các em đều dân tộc Cadong, Mơnông, Xêđăng... Gia đình của các tự túc tự cấp bằng nghề làm vườn rừng, chăn nuôi gia súc gia cầm, từng bước tự lực cánh sinh trong việc xóa đói giảm nghèo... 2. Thực trạng rèn luyện kĩ năng nói tiếng Việt trong giời Kể chuyện lớp 2 trường Tiểu học xãTrà Bui huyện Bắc Trà My. Chương trình dạy học Kể chuyện lớp 2 cho các em vùng dân tộc cũng giống như các em người Kinh, một tuần học 1 tiết, 35 tuần các em học 31 tiết kể chuyện và nội dung câu chuyện đều là nội dung của bài Tập đọc trước đó. Cụ thể như sau: Tuần Tập đọc Kể chuyện 1 Có công mài sắt, có ngày nên kim Có công mài sắt, có ngày nên kim GVHD: Th.s.Võ Thị Hoa - 9 - SVTH: Nguyễn Thị Minh Quyền Một số biện pháp rèn kĩ năng nói tiếng Việt cho học sinh lớp 2 vùng dân tộc Những câu chuyện trong các bài học góp phần quan trọng hình thành ở trẻ nhận thức đúng đắn về thế giới xung quanh và trách nhiệm của bản thân các em, từ những chuyện lớn lao như quan hệ giữa con người với thiên nhiên (con người biết chinh phục thiên nhiên nhưng cũng phải biết sống hòa hợp với thiên nhiên: Ông Mạnh thắng Thần Gió), bảo vệ môi trường (chim chóc, hoa cỏ cũng có cuộc sống riêng của chúng, đừng làm hại chúng: Chim sơn ca và bông cúc trắng), đoàn kết dân tộc (các anh em trên đất nước ta đều chung một gốc: Chuyện quả bầu) đến tình cảm gia đình (biết quan tâm đến ông bà: Sáng kiến của bé Hà; biết vâng lời cha mẹ: Sự tích cây vú sữa; anh em phải yêu thương, đùm bọc nhau: Câu chuyện bó đũa, Hai anh em), bạn bè (bạn tốt là người dám hi sinh vì bạn: Bạn của Nai Nhỏ; những kẻ giả dối, bội bạc thì không có bạn: Quả tim khỉ; không nên đùa ác với bạn, cần đối xử tốt với các bạn gái: Bím tóc đuôi sam); đức kiên trì, nhẫn nại (kiên trì nhẫn nại thì sẽ thành công: Có công mài sắt có ngày nên kim),... 2.1. Về phía giáo viên Trường Tiểu học Trà Bui có 15 giáo viên, trong đó có 10 giáo viên đứng lớp chủ nhiệm. Đa số giáo viên là nữ đều trẻ: giáo viên vừa tốt nghiệp, dạy một vài năm nên có kinh nghiệm. Bên cạnh đó, giáo viên không biết tiếng dân tộc nên sự giao thoa giữa giáo viên và học sinh rất khó. Cô nói trò không hiểu, trò nói cô cũng không hiểu. Hằng năm, các giáo viên trẻ này thường lên dạy sớm để dạy tiếng Việt cho các em, đồng thời trao dồi kiến thức về phong tục, tập quán, học tiếng dân tộc. Phần lớn, học sinh ở đây đến ngày mùa thường theo cha mẹ lên nương rẫy và ở luôn tại rẫy, do đó đội ngũ giáo viên của trường phải nhiệt tình, tâm huyết, đi đến từng nhà để vận động các em ra lớp. Tinh thần nhiệt huyết, yêu nghề, yêu trẻ cũng chính là động lực để các giáo viên trẻ cống hiến sức trẻ mang con chữ đến cho vùng cao. Có thể nói, con chữ gieo ở vùng cao là cả một quá trình miệt mài, gian nan đối với các cô, các thầy. Để giúp nắm vững kiến thức đã học, hiểu biết thêm về các lĩnh vực xã hội thì việc học tiếng Việt là một điều cần thiết đối với học sinh Trà Bui này. Việc rèn luyện các kĩ năng nghe, nói, đọc viết cho các em không chỉ là nhiệm vụ riêng của môn Tiếng Việt mà là nhiệm vụ chung của tất các môn học, các hoạt động tổ chức ngoài giờ lên lớp. Từng phân môn trong Tiếng Việt cũng đảm nhận nhiệm vụ chung như vậy. Kể chuyện là điều kiện tốt để các em nghe, nói giao tiếp với nhau không chỉ bằng lời nói mà bằng cử chỉ, hành động, cảm xúc nhập vai vào các nhân vật theo ngôn ngữ riêng của các em. Các cô dạy Kể chuyện ở lớp 2 vẫn đi theo khung chương trình mà Bộ giáo dục đã quy đinh. Thế nhưng, dạy Kể chuyện cho GVHD: Th.s.Võ Thị Hoa - 11 - SVTH: Nguyễn Thị Minh Quyền Một số biện pháp rèn kĩ năng nói tiếng Việt cho học sinh lớp 2 vùng dân tộc kiến thức từ chương trình học. Chất lượng giáo dục đại trà vì vậy mà bị ảnh hưởng. Phần lớn học sinh lưu ban bỏ học trong thời gian qua tập trung chủ yếu ở khu vực miền núi và đều do học lực xếp loại yếu kém. Về số lượng từ các em sử dụng được trong giao tiếp chỉ ở mức có thể nói được những lời nói đơn như Cô giáo hỏi: Bạn nhỏ trong tranh đang làm gì? Các em trả lời: Bạn nhỏ đang vẽ. Bạn nhỏ khóc. Các em lớp 2 Trà Bui học tiếng Việt cũng giống như học sinh Kinh lớp 1, 2 học ngoại ngữ Anh nên các em nói rất đơn giản như: chào hỏi, đề nghị, thưa cô, thưa thầy, cha, mẹ, ông bà hay các sự vật gần gủi như cái bàn, cái ghế, quyển sách, cái bút...; chỉ nghe và hiểu được những câu lệnh thường xuyên như ra chơi, vào lớp, ngồi xuống, đứng lên... Với vốn từ ít ỏi như trên, các em nghe – nói một vấn đề rất chậm, không đầy đủ, thường nói câu tỉnh lượt hoặc từng tiếng thay vì nói cả câu. Ví dụ: cô giáo cho cả lớp xem tranh: Tôm càng và Cá con, cô hỏi: Em thấy có gì trong bức tranh ? Các em trả lời: tôm và cá. Nếu như học sinh Kinh thì các em thường trả lời đầy đủ: Thưa cô, em thấy trong tranh có con tôm và con cá. Khi phát âm, các em thường sai các dấu thanh (thường nói các tiếng có thanh thanh /ngã/ thành thanh /sắc /, thanh /không/ thành thanh /nặng/) và phụ âm đầu (tr/ch, x/s, v/b ). Ví dụ: trời nắng thì các em nói: chời lắng. Trong giờ học Kể chuyện các em thường gặp những khó khăn: nghe, đọc, hiểu nội dung câu chuyện; khả năng nói kết từ ngữ, câu để tạo thành lời nói rất hạn chế và rụt rè, tự ti trong giao tiếp với giáo viên. Tóm lại, các em học sinh lớp 2 mặc dù đã được các cô dạy ở lớp 1 dạy cho các em nghe, nói, đọc, viết nhưng chỉ ở mức độ đơn giản. Các em nói tiếng Việt rất khó khăn và hay sai về phát âm thanh điệu, phụ âm đầu. 3. Nguyên nhân dẫn đến học sinh lớp 2 nói tiếng Việt kém. Thứ nhất: Môi trường giao tiếp bằng tiếng Việt của học sinh hạn hẹp và không thuần nhất: Trong khi học sinh bình thường được học tập, giao tiếp trong môi trường thuần tiếng Việt thì môi trường giao tiếp của các em vùng dân tộc hết sức hạn hẹp và thiếu tính tích cực. Ở trường, khi học trên lớp, chủ yếu các em được nghe cô giáo giảng bài (có lúc phải dùng cả 2 thứ tiếng để học sinh hiểu được nội dung bài dạy), được luyện nói nhưng không thể nói những câu đơn nhiều thành phần, câu ghép. Còn khi ra chơi, các em lại nói với nhau bằng tiếng mẹ đẻ. Về với gia đình và cộng đồng, các em lại sống trong môi trường thuần tiếng dân tộc, vốn tiếng Việt tạm thời bị chìm vào dạng tiềm GVHD: Th.s.Võ Thị Hoa - 13 - SVTH: Nguyễn Thị Minh Quyền
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_noi_tieng.doc