Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 2 trường TH Lê Dật
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 2 trường TH Lê Dật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn đọc cho học sinh Lớp 2 trường TH Lê Dật
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc BÁO CÁO SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN ĐỌC CHO HỌC SINH LỚP 2” 1. Mô tả bản chất của sáng kiến 1.1 Phân tích tình trạng của giải pháp đã biết (phân tích ưu điểm, nhược điểm của nó)” Trong giáo dục phổ thông nói chung và ở trường Tiểu học nói riêng, Tiếng Việt là một môn học có vị trí vô cùng quan trọng. Nó chiếm một thời lượng rất lớn trong chương trình. Mục tiêu của môn Tiếng Việt ở bậc Tiểu học là hình thành và phát triển ở học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp. Mà trong đó yêu cầu đọc và viết là phần quan trọng nhất. Sở dĩ nói như vậy là vì một học sinh đi học điều đầu tiên cần nắm là đọc được và viết được. Như ông cha ta gọi là “biết chữ”. Một người thể hiện sự “biết chữ” của mình thì rõ ràng người đó phải biết đọc và biết viết. Mà yêu cầu đọc là một trong bốn yêu cầu quan trọng trong môn Tiếng Việt. Việc rèn đọc của học sinh đều được bắt nguồn từ lớp Một nhưng trong thực tế khi lên đến lớp Hai vấn đề đọc của nhiều em vẫn còn hạn chế. Vì vậy khi nghiên cứu và thực hiện đề tài này tôi nhận thấy một số ưu và nhược điểm của việc đọc như sau: Ưu điểm: Ở bậc Tiểu học, cùng với các môn học khác, Tập đọc là một phân môn có vị trí quan trọng hàng đầu trong chương trình Tiếng Việt. Dạy tốt phân môn Tập đọc không những rèn luyện cho học sinh kĩ năng đọc mà còn phát triển cho các em vốn từ ngữ phong phú, tạo điều kiện để các em học tốt các phân môn khác. Thông qua môn Tập đọc rèn cho các em kĩ năng đọc như: đọc đúng, đọc nhanh, đọc chính xác, rõ ràng, diễn cảm để học sinh có những hiểu biết về kiến thức văn học, ngôn ngữ và ngược lại. Đầu tiên trẻ phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc được con người sẽ tiếp xúc với kho tàng kiến thức vô tận của nhân loại, tiếp thu những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học,... để có cuộc sống phát triển tốt trong xã hội hiện đại. Nhờ biết đọc, con người có thể tự học, học nữa, học mãi, học suốt đời. Chính vì vậy, dạy đọc ở trường Tiểu học hiện nay là rất quan trọng, nhất là các lớp đầu cấp. Nếu không biết đọc hay đọc không vững các em khó có thể sử dụng tiếng Việt một cách thành thạo trong học tập và giao tiếp. Ngoài ra nó còn ảnh hưởng đến các môn học khác. Ví dụ như do đọc chậm hay đọc còn ngắc ngứ sẽ ảnh hưởng đến giải toán có lời văn do không hiểu nội dung đề, không thuộc bài các môn học khác, viết văn không trôi chảy... Vì vậy đọc là nền tảng đầu tiên quyết định cho việc học tập của các em sau này. 3 - Một số học sinh năng khiếu chưa biết nhấn giọng ở những từ gợi tả, gợi cảm. 1.2 Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược điểm của giải pháp đã biết: Như đã trình bày ở nhược điểm, một số học sinh đã không quan tâm đến việc rèn kĩ năng đọc và đọc không đạt như mong muốn. Khả năng tiếp thu môn học Tiếng Việt của các em cũng nhiều hạn chế so với các môn Toán, Tự nhiên xã hội hay Đạo đức... Ở phân môn Tập đọc lớp Hai, phần lớn các em đọc được nhưng chưa đúng yêu cầu. Một số em đọc chưa được rõ ràng, chưa biết ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy, cách đọc một cụm từ dài, ...Về kĩ năng đọc cũng chưa thể hiện được tình cảm, nội dung bài học. Ví dụ như các em chưa biết nhấn giọng ở từ ngữ gợi tả, những từ ngữ trọng tâm, từ chìa khoá, trong những trường hợp sắm vai hay đối thoại các em thường lúng túng, nhiều em cũng thiếu tự tin trong việc thể hiện giọng đọc của mình. Đối với đối tượng học sinh chậm tiến, các em chưa xác định được đâu là giới hạn những câu đối thoại của mình, đâu là những cụm từ dài cần phải nghỉ hơi,... Thế nhưng một số bậc phụ huynh cũng không quan tâm, lo lắng. Mà yêu cầu đọc là một trong bốn yêu cầu quan trọng trong môn Tiếng Việt. Vì vậy có biết bao câu hỏi đặt ra trong giảng dạy: Làm sao để học sinh của mình ngày một nhân lên tình yêu đối với tiếng mẹ đẻ? Ngày một nói, viết tiếng Việt tốt hơn? Để trả lời được các câu hỏi này chúng ra cần phải làm gì? Từ nhiều năm nay, tất cả giáo viên tiểu học đặc biệt quan tâm tới vấn đề đổi mới cách dạy, đổi mới cách học của bộ môn Tiếng Việt trong đó có phân môn Tập đọc. Bởi vì môn Tập đọc là một môn quan trọng, chiếm vị trí chủ yếu trong chương trình. Môn này có đặc trưng cơ bản là: vừa là môn học cung cấp cho học sinh một khối lượng kiến thức cơ bản nhằm đáp ứng được những mục tiêu, nhiệm vụ của từng bài học, vừa là công cụ, là chìa khóa, để học tập tốt tất cả các môn học khác. Biết đọc là có thêm một công cụ mới để học tập, để giao tiếp, để nắm bắt được mọi thông tin diễn ra hàng ngày trong xã hội. Tập đọc là phân môn chủ yếu rèn đọc cho học sinh, từ mức độ nhận biết để đọc đúng, đọc rõ ràng, đọc to, mức độ đọc cao hơn là đọc lưu loát, biết ngắt nghỉ lên xuống giọng và thể hiện thái độ tình cảm qua bài tập đọc. Từ đó giúp học sinh hiểu nội dung của bài. Để đạt được mục đích trên, trước hết người giáo viên phải đổi mới phương pháp dạy học. Sử dụng bằng nhiều hình thức rèn đọc, trên cơ sở giúp học sinh nhận thức được việc rèn đọc trong trường tiểu học là một vấn đề rất quan trọng. Vì vậy trong năm học này tôi đã đi sâu vào tìm hiểu, nghiên cứu một số giải pháp có tính cải tiến, sáng tạo để áp dụng vào trong thực tế giảng dạy mà đặc biệt là phân môn Tập đọc nhằm nâng cao chất lượng đọc cho học sinh lớp Hai. Cụ thể như sau: 5 Ngoài hình thức trên, giáo viên còn ghi các từ khó cần luyện đọc bằng phấn màu lên bảng (bảng phụ). Chỉ dùng phấn màu ghi các phụ âm, vần khó trong các từ luyện đọc, để các em được nhìn bằng mắt, tập phát âm bằng miệng, được nghe và có thể viết bằng tay vào bảng con. Có như vậy các em sẽ nhớ lâu và đọc đúng. Học sinh nào đọc sai phụ âm, sai vần thì cần luyện nhiều và yêu cầu phải phân tích từ có tiếng, có vần mà các em hay đọc sai. - Luyện đọc câu, đoạn, bài: Kết hợp với việc đọc đúng tiếng, từ, phụ âm đầu, tôi còn rèn cho học sinh biết ngắt nghỉ đúng dấu chấm, dấu phẩy, đọc lưu loát. Đây là yêu cầu trọng tâm của học sinh lớp Hai. Khi học sinh đọc, giáo viên phải theo dõi từng chữ không để cho các em đọc kéo dài ê-a. Đối với học sinh chậm tiến, phần nào đọc chưa đạt yêu cầu, giáo viên hướng dẫn các em dùng bút đánh dấu vào sách giáo khoa để đọc lại cho đúng. Trong các giờ tập đọc, tôi chép đoạn văn hoặc đoạn thơ dài, khó đọc vào bảng phụ để hướng dẫn học sinh đọc cụ thể từng câu, từng đoạn cách đọc ra sao? Nhấn giọng ở từ nào? - Đọc thầm của học sinh: Đây là một bước quan trọng để hình thành và phát triển kỹ năng, kỹ xảo đọc thầm và nó luôn theo ta trong suốt cuộc đời. Đọc thầm giúp các em chuẩn bị tốt cho khâu đọc thành tiếng, tìm hiểu bài và nắm bắt nội dung bài học tốt hơn. Vì vậy, chúng ta không nên bỏ qua bước này. Đối với học sinh lớp Hai, đọc thầm khó hơn đọc thành tiếng do các em chưa có sức tập trung cao để theo dõi bài đọc. Thường các em dễ bị sót chữ, bỏ dòng. Để hướng dẫn học sinh đọc thầm đạt kết quả, khi dạy tôi yêu cầu các em tập trung vào bài. Sau đó, tôi kiểm tra việc đọc thầm bằng cách hỏi học sinh đọc đến đâu và định hướng nội dung cần tìm. Đọc thầm kết hợp với việc tham gia trả lời câu hỏi để nhận biết nhiệm vụ học tập. Có như vậy các em mới chú ý và tập trung trong khi đọc thầm và kích thích tinh thần học tập của học sinh. Học sinh đọc thầm có thể dưới nhiều hình thức: Cả lớp đọc thầm, đọc thầm theo bạn (học sinh đọc cá nhân) hoặc theo cô (đọc mẫu) và giáo viên đưa ra những định hướng sau: + Tự phát hiện tiếng, từ phải tìm dễ nhằm lẫn; + Tìm những từ cần nhấn giọng, hạ giọng, lên giọng, chỗ ngắt, nghỉ hơi; + Bài văn, bài thơ nói về ai? + Trong bài có những nhân vật nào? Ai đang trò chuyện? + Phát hiện giọng đọc của đoạn, bài, từng nhân vật; 2. Phương pháp đàm thoại Phương pháp này phù hợp với tâm lí trẻ nhỏ, các em thích được hoạt động, thực hiện trên cơ sở trao đổi câu hỏi, phục vụ cho nội dung bài. Đây chính là thầy giáo dẫn dắt học sinh tìm hiểu, khám phá khai thác những nội dung để chiếm lĩnh kiến thức. Ngược lại trò có thể hỏi những thắc mắc để giáo viên hướng dẫn và giải đáp. 7 + Phương pháp dạy học các môn ở lớp 2–Nhà xuất bản Giáo dục–Xuất bản năm 2000. + Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học lớp 2–Nhà xuất bản Giáo dục. + Tiếng Việt cho mọi nhà–Nhà xuất bản Thanh niên của tác giả Hoàng Dân. + Tiếng Việt nâng cao lớp 2–Nhà xuất bản Giáo dục. Nhiều tác giả + Truyện đọc lớp 2–Nhà xuất bản Giáo dục của tác giả Trần Mạnh Hưởng và Lê Hữu Tỉnh. 1.4. Các bước thực hiện giải pháp, cách thức thực hiện giải pháp * Biện pháp 1: Khảo sát chất lượng đọc, sắp xếp chỗ ngồi Để giúp các em đọc chưa đạt yêu cầu khắc phục được nhược điểm, đọc đúng được văn bản, các em đọc to, rõ ràng, ngày càng đọc tốt hơn, lưu loát hơn. Sau khi nhận lớp, qua những tiết tập đọc đầu, tôi theo dõi thường xuyên việc đọc bài của các em. Tiếp theo, tôi tiến hành kiểm tra đọc và phân loại khả năng đọc của từng em, phân chia đối tượng đọc thành các nhóm: + Nhóm A: đọc lưu loát, rành mạch, có diễn cảm (thể hiện được giọng của nhân vật có trong bài đọc) + Nhóm B: đọc to, rõ ràng, trôi chảy nhưng chưa diễn cảm và đôi chỗ ngắt nghỉ chưa đúng. + Nhóm C: đọc ê a, thêm từ, bớt từ, đọc ngắc ngứ + Nhóm D: đọc còn chậm, đọc sai đôi chỗ về vần, âm đầu, có khi đánh vần từng tiếng và đôi lúc đọc lệch dòng... Từ việc phân chia thành các nhóm như trên đã giúp tôi chủ động hơn trong việc lên kế hoạch luyện đọc cho các em ngay từ đầu năm. Đầu tiên, tôi bắt tay vào việc rèn đọc theo nhóm đối tượng. Tôi tập trung rèn cho nhóm đối tượng cần quan tâm nhất đó là nhóm C, D. Để giúp các em bắt kịp tốc độ đọc theo yêu cầu, đòi hỏi ở người dạy sự kiên nhẫn, tôi thường cho các em luyện đọc nhiều về từ, cụm từ, câu. Những lúc cần thiết, tôi cho các em phân tích tiếng để nhận diện mặt chữ. Đến khi đã tiến bộ, tôi luyện cho học sinh làm chủ tia mắt khi đọc, luyện cho các em đọc không bỏ sót tiếng, không thêm tiếng, không lạc dòng, quan tâm đến cách phát âm cũng như việc đọc to, rõ, nhanh hơn Cùng lúc đó, khi phân chia chỗ ngồi, nhóm này tôi sắp xếp ngồi cùng với những em đọc tốt ở nhóm A để các em có điều kiện giúp đỡ nhau, rèn luyện bổ sung cho nhau qua quá trình luyện đọc theo cặp, theo nhóm. Đồng thời kết hợp rèn đọc cho các đối tượng của nhóm A theo yêu cầu cao hơn như là đọc diễn cảm, đọc theo vai. Tôi thường lấy các em này làm nhân tố tích cực từ đó phát triển thêm các em khác. Với nhóm B tôi luôn tạo điều kiện cho học sinh phát huy năng lực sẵn có của mình trong giờ tập đọc. Kết hợp luyện đọc theo đoạn, cho các em tham gia 9 Trong quá trình rèn đọc, tôi tập cho các em biết được những ký hiệu ngắt, nghỉ, cao giọng, hạ giọng, nhấn giọng... VD: ngắt hơi: / nghỉ hơi: // cao giọng: hạ giọng: nhấn giọng: 4. Rèn phát âm Trong quá trình dạy học trên lớp tôi thường quan tâm đến từng đối tượng học sinh, chỉ ra những chỗ sai, những chỗ cần khắc phục và không quên khích lệ, khen ngợi những chỗ em đã đọc tốt. Với những em còn nhiều hạn chế cần được quan tâm hơn thì cho các em tự phát hiện những từ cần rèn đọc, những câu dài cần ngắt nghỉ cho phù hợp, những từ cần nhấn giọng để tạo tính thuyết phục... Ví dụ: Khi dạy bài "Bím tóc đuôi sam" giáo viên hướng dẫn học sinh đọc đúng các câu văn, chú ý ngắt, nghỉ và nhấn giọng ở một số từ như sau: Khi Hà đến trường,/ mấy bạn gái cùng lớp reo lên://"Ái chà chà!// Bím tóc đẹp quá!// Vì vậy,/ mỗi lần cậu kéo bím tóc,/ cô bé lại loạng choạng/ và cuối cùng/ ngã phịch xuống đất.// Luyện phát âm tránh âm ngữ địa phương: loạng choạng, cuối cùng, ngã phịch,.... Hay trong bài: "Sự tích cây vú sữa", có đoạn văn : "Cậu nhìn lên tán lá. Lá một mặt xanh bóng, mặt kia đỏ hoe như mắt mẹ khóc chờ con. Cậu bé òa khóc. Cây xòa cành ôm cậu, như tay mẹ âu yếm vỗ về..." tôi chú ý rèn cho các em phát âm chuẩn các từ: đỏ hoe, òa khóc, xòa cành... Bên cạnh đó tôi còn tập trung khắc phục thói quen xấu như đọc ê a, đọc thêm hoặc bớt từ trong câu văn... 5. Hướng dẫn học sinh biết cách ngắt, nghỉ hơi đúng khi đọc Để đọc được lưu loát, tôi hướng dẫn học sinh biết cách ngắt, nghỉ hơi đúng, nhất là khi đọc những câu dài. - Trước hết cần hướng dẫn học sinh ngắt, nghỉ hơi ở những chỗ có dấu kết thúc câu hoặc cách các bộ phận với nhau (các dấu chấm, chấm hỏi, chấm than, hai chấm, chấm lửng ở cuối câu hoặc các dấu phẩy, chấm phẩy, gạch ngang, ngoặc đơn ở giữa câu). Khi gặp những dấu câu này, hướng dẫn học sinh cần nghỉ một quãng bằng thời gian phát âm một tiếng. Trong trường hợp dấu kết thúc câu đồng thời cũng kết thúc một đoạn để xuống dòng, quãng nghỉ sẽ dài gấp đôi khoảng thời gian phát âm một tiếng.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_doc_cho_hoc_sinh.doc