Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt Lớp 2 phân môn kể chuyện

docx 18 trang sangkienhay 19/10/2023 2280
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt Lớp 2 phân môn kể chuyện", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt Lớp 2 phân môn kể chuyện

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt Lớp 2 phân môn kể chuyện
 Sáng kiến kinh nghiệm
 Một số biện pháp quản lý
hoạt động dạy và học môn
Tiếng Việt lớp 2 phân môn
 kể chuyện lí thú, các em cảm nhận được nội dung và thu hoạch được những bài học bổ ích.
 Ớ lớp 2, phân môn kể chuyện có nhiệm vụ:
1. Phát triển kĩ năng nói và nghe cho học sinh, bao gồm:
 - Kĩ năng độc thoại: kể lại câu chuyện đã học hay đã nghe theo các mức độ khác nhau 
(kể từng đoạn, kể toàn bộ câu chuyện, kể theo lời lẽ trong văn bản, kể bằng lời của mình).
 - Kĩ năng đối thoại: Tập dựng lại câu chuyện theo các vai khác nhau , bước đầu biết 
sử dụng các yếu tố phụ trợ trong giao tiếp như: nét mặt, cử chỉ, điệu bộ .
 - Kĩ năng nghe: Theo dõi được câu chuyện bạn kể tiếp hoặc nêu ý kiến bổ sung, nhận 
xét.
 2. Củng cố, mở rộng và tích cực hóa vốn từ ngữ, phát triển tư duy hình tượng và tư 
duy logic, nâng cao sự cảm nhận về hiện thực cuộc sống thông qua nội dung câu chuyện.
 3. Bồi dưỡng tình cảm tốt đẹp, trau dồi hứng thú đọc và kể chuyện, đem lại niềm vui 
tuổi thơ trong hoạt động học tập.
 Để giúp học sinh lớp 2 học tốt phân môn Kể chuyện cũng là cơ sở để các em có thể 
học tốt các môn học khác có liên quan đến kĩ năng nói và nghe, đồng thời phát triển vốn 
từ ngữ, phát triển tư duy của các em. Nhưng qua thực tế và việc khảo sát ở trường tôi cho 
thấy việc giảng dạy phân môn kể chuyện chưa được giáo viên đầu tư đúng mức, dẫn đến 
chất lượng học tập của học sinh ở phân môn này chưa cao. Các em không tự tin khi được 
gọi lên kể chuyện; còn lệ thuộc nhiều vào lời lẽ ở sách giáo khoa; kể chuyện như đang đọc 
bài, chưa kết hợp được kể chuyện với kèm theo các yếu tố phi ngôn ngữ ; 
 Vì vậy việc giảng dạy phân môn kể chuyện lớp 2 trong nhà trường cần được quan tâm 
nhiều hơn. Nhận thức rõ tầm quan trọng của phân môn này, với vai trò là một cán bộ quản 
lí chuyên môn trong nhà trường, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “ Một số biện pháp quản 
lí hoạt động dạy và học môn Tiếng Việt lớp 2: Phân môn kể chuyện
II/. THỰC TRẠNG TRƯỚC KHI THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI:
 1/. Thuận lợi:
 Ban giám hiệu nhà trường luôn tạo điều kiện cho tập thể giáo viên tự thể hiện và phát 
huy khả năng trong giảng dạy và học tập. 2/4 37 25 67,6 12 32,4
 2/5 36 22 61,1 14 38,9
 2/6 34 22 64,7 12 35,3
 2/7 36 24 66,7 12 33,3
 TC 249 155 62,2 94 37,8
 Những con số này cũng đã phản ánh phần nào chất lượng học tập cũng như giảng dạy 
của giáo viên và học sinh qua phân môn Kể chuyện. Nếu các em được học tốt, được tạo 
cơ hội rèn luyện kĩ năng nói và kĩ năng nghe, kĩ năng giao tiếp với bạn qua từng tiết học , 
trong từng bài thì cũng phần nào đem lại kết quả khả quan hơn, các em sẽ tự tin, mạnh dạn 
hơn và tạo ra niềm vui thích, sự hứng thú cho cả thầy lẫn trò.
III/. NỘI DUNG ĐỀ TÀI:
 1. Cơ sở lí luận:
 1.1Dạy kể chuyện ở tiểu học:
 Kể chuyện là một thuật ngữ được hiểu theo nhiều nghĩa. Trong phân môn kể 
 chuyện của môn Tiếng Việt ở tiểu học, kể chuyện được xem là một dạng nói đặc 
 biệt của độc thoại nhằm truyền đến người nghe những thông báo có tínhnghệ thuật, 
 những cảm xúc mang tính thẩm mĩ. Sự thành công của việc kể chuyện do nhiều 
 yếu tố tạo nên: nội dung câu chuyện phải hấp dẫn, có ý nghĩa nhân văn sâu sắc, 
 phù hợp với tâm lí tiếp nhận của từng lứa tuổi. Tuy nhiên , dù câu chuyện có hay 
 bao nhiêu nhưng không có nghệ thuật kể chuyện thì việc kể chuyện cũng không 
 đạt kết quả. Thành công của người kể phụ thuộc vào sự thâm nhập câu chuyện, 
 hứng thú và sự thể hiện ngữ điệu phù hợp. Ngoài ngữ điệu, yếu tố phi ngôn ngữ 
 như ánh mắt, cử chỉ , điệu bộ .... cũng góp phần quan trọng cho sự thành công của 
 kể chuyện.
 Thực tế cho thấy, kể chuyện có sức hấp dẫn kì lạ, đặc biệt là đối với học sinh 
 lứa tuổi tiểu học. Sức hấp dẫn đó không hề giảm đi dù câu chuyện đã được các em 
 đọc trước nhiều lần. Bởi lẽ khi kể chuyện, người kể không trình bày nguyên văn ❖ Quả tim khỉ
 ❖ Ai ngoan sẽ được thưởng
 Danh nhân lịch sử 3 ❖ Chiếc rễ đa tròn
 ❖ Bóp nát quả cam
 ❖ Phần thưởng
 ❖ Bím tóc đuôi sam
 Sinh hoạt 10 ❖ Chiếc bút mực
 ❖ Mau giáy vụn
 ❖ Người mẹ hiền
 ❖ Người thấy cũ
 ❖ Người làm đồ chơi
 ❖ Bông hoa niềm vui
 ❖ Sáng kiến của bé Hà
 ❖ Con chó nhà hàng xóm
 ❖ Những quả đào
 ❖ Bạn của Nai Nhỏ
 ❖ Chim Sơn Ca và Bông Cúc Trắng
 Đồng thoại 3
 ❖ Bác sĩ Sói
 ❖ Tôm Càng và Cá Con
 2. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài:
 2.1 Những hình thức kể chuyện ở lớp 2:
 Có 3 hình thức rèn luyện kĩ năng kể chuyện trong tiết kể chuyện. Đó là:
 - Kể theo tranh: Các tranh minh hoạ giúp học sinh nhớ lại nội dung bài tập đọc đã 
học, làm chỗ dựa để các em kể chuyện. Đôi khi các tranh này được đảo lộn thứ tự so với 
nội dung câu chuyện đã học. Trong trường hợp này, trước hết học sinh cần sắp xếp lại thứ chuyện làm một. Vì vậy, tiết dạy kể chuyện được sắp xếp sau bài dạy tập đọc đầu tuần để 
các em nhớ nội dung câu truyện vừa đọc. Hệ thống câu hỏi tìm hiểu bài trong phân môn 
Tập đọc và trong phân môn Kể chuyện đều hướng đến mục đích giúp học sinh thông hiểu 
câu chuyện. Khi kể chuyện, người kể không chỉ tái hiện lại đúng diễn biến của truyện hoàn 
toàn khách quan mà còn bộc lộ những cảm xúc chân thực và khả năng sáng tạo của bản 
thân khi kể câu chuyện. Có thể rèn luyện kĩ năng kể chuyện chân thực qua một số hình 
thức tập luyện chủ yếu sau:
 + Kể chuyện bằng lời của mình:
 Yêu cầu của biện pháp này là kể không lặp lại nguyên văn từng từ ngữ trong truyện 
như đọc. Học sinh có thể dùng từ, đặt câu theo cách khác, diễn đạt rõ thêm một vài ý qua 
sự tưởng tưởng của mình.
 Ví dụ: Kể lại cuộc gặp gỡ giữa bé Hà và thầy giáo (Truyện Bím tóc đuôi sam) bằng 
lời của em.
 + Kể chuyện phân vai:
 Phân vai dựng lại câu chuyện là một biện pháp kể chuyện được thực hiện từ lớp 1, 
nội dung của biện pháp này là phân cho mỗi học sinh mỗi vai để kể lại câu chuyện. Yêu 
cầu của vai kể là mỗi em phải nói kịp thời, đúng vai, đúng lời nhân vật mà mình đóng vai. 
Đối với học sinh khá, giỏi, yêu cầu các vai phải phối hợp nhịp nhàng, các em phải thực sự 
nhập vai, hiểu nhân vật, nói lời nhân vật một cách biểu cảm, biết kết hợp lời nói với cử 
chỉ, điệu bộ.
 Ví dụ: Dựng lại câu chuyện (Người mẹ hiền) theo vai: người dẫn chuyện, Minh, Nam, 
bác bảo vệ, cô giáo.
 + Kể chuyện theo trí tưởng tượng:
 Đây là cách kể chuyện đòi hỏi học sinh phải tưởng tượng để kể chuyện. Tuy nhiên, 
ở tiểu học chỉ yêu cầu học sinh sáng tạo một phần nào đó của câu chuyện đã có san sao 
cho phù hợp với các phần khác của câu chuyện.
 Ví dụ: Em mong muốn câu chuyện Sự tích cây vú sữa kết thúc như thế nào? Hãy kể 
lại đoạn cuối câu chuyện theo ý đó.
 Hoặc: Nói lại ý nghĩa của hai anh em (truyện Hai anh em) khi gặp nhau. này, khâu chuẩn bị cho bài học mới đóng vai trò rất quan trọng. Trong phần củng cố, dặn 
dò ở mỗi tiết kể chuyện, giáo viên cần dành thời gian hướng dẫn, gợi ý những việc cần 
làm ở nhà để học sinh biết mà chuẩn bị bài mới cho cụ thể.
 - Trên lớp để tạo điều kiện cho 100% học sinh được tham gia, giáo viên nên chú 
trọng hình thức thực hành theo nhóm (dựa vào nội dung câu chuyện, số lượng nhân vật 
trong truyện để chia nhóm và yêu cầu số lượt kể) trước khi học sinh trình bày trước lớp. 
Giáo viên giúp học sinh nắm vững yêu cầu của bài tập để các em có thể phát huy tính tích 
cực, sáng tạo trong quá trình kể chuyện. Tuỳ theo mức độ của từng bài tập mà chọn học 
sinh có trình độ tương đương để trình bày nhằm mang lại thành công cho mỗi học sinh.
 - Khuyến khích học sinh kể tự nhiên, hồn nhiên bằng giọng điệu, cảm xúc của chính 
mình. Khi nhận xét lời bạn kể, chú trọng theo hướng động viên, khích lệ là chính. Riêng 
lời nhận xét của giáo viên cần nêu đúng ưu, khuyết điểm trong lời kể của học sinh nhưng 
thật tế nhị sao cho các em không cảm thấy quá nặng nề, mất niềm tin vào bản thân.
 2.4 Một số biện pháp quản lý hoạt động dạy và học:
 2.4.1 Quản lý việc thực hiện chương trình:
 Nhằm đảm bảo việc thực hiện dạy đúng và đủ chương trình, Ban giám hiệu nhà 
trường cần chỉ đạo cụ thể những việc sau:
 - Hướng dẫn giáo viên lập kế hoạch dạy môn học theo chuẩn kiến thức và kĩ năng 
ngay từ đầu năm học trong buổi họp chuyên môn. Sau đó, kế hoạch được hiệu trưởng và 
phó hiệu trưởng góp ý và duyệt cho áp dụng.
 - Hàng tháng hiệu phó chuyên môn, tổ trưởng chuyên môn có trách nhiệm kiểm tra, 
đôn đốc và theo dõi để nắm tình hình thực hiện chương trình dạy học của giáo viên qua 
việc kiểm tra lịch báo giảng, giáo án, kế hoạch môn học.
 - Chỉ đạo thực hiện điều chỉnh nội dung, chương trình cho phù hợp với từng đối 
tượng học sinh.
 - Bên cạnh đó, hiệu trưởng phải đảm bảo về mặt thời gian cho việc thực hiện đúng 
và đủ chương trình theo từng giai đoạn học tập của học sinh.
 2.4.2 Quản lý việc soạn bài và chuẩn bị bài lên lớp của giáo viên
 Gồm các công việc cần tiến hành như sau: Vì vậy hiệu trưởng tạo điều kiện thuận lợi và cơ hội cho giáo viên thực hiện, phát 
huy các phương pháp dạy học đem lại hiệu quả cho môn học kể chuyện nhằm đẩy mạnh 
phong trào đổi mới phương pháp dạy học trong nhà trường để phát huy tính tích cực 
của học sinh .
 2.4.5 Quản lí việc tổ chức, hướng dẫn học sinh học tập trên lớp:
 Dạy học “tích cực” là phải đảm bảo cho người học thực sự là chủ thể của hoạt 
động là sản phẩm của chính mình. V ề bản chất, dạy học là một hoạt động xã hội có 
chủ đích, có kế hoạch và vì thế nó có tính quá trình, tính hệ thống, bao gồm nhiều nhân 
tố có quan hệ hữu cơ, tương tác biện chứng. Do vậy người giáo viên dạy học là hướng 
dẫn học sinh học tập có hiệu quả.
 Trong quá trình quan sát giờ dạy của giáo viên trên lớp, cần xem việc hướng dẫn 
học sinh về phương pháp học tập thông qua việc tổ chức hoạt động cho từng nhóm đối 
tượng học sinh tham gia. Khai thác và phát huy tính tích cực, chủ động sáng tạo của 
học sinh trong việc tìm tòi kiến thức và kĩ năng thể hiện.
 2.4.6 Tổ chức kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh:
 Giáo viên tổ chức kiểm tra, đánh giá nhằm biết được kết quả học tập của học sinh 
đạt ở mức nào. Vì thế, đối với học sinh giỏi các em sẽ tự tin trong việc thể hiện mình. 
Ngược lại, đối với học sinh yếu các em có cảm giác bi quan rằng mình sẽ không thể 
làm được. Chính vì vậy chúng không có động lực học tập, không dám thể hiện trước 
các bạn. Đối với học sinh này, ta nên áp dụng từng bước đơn giản nhằm giúp học sinh 
dể hiểu những nội dung cần thiết để tăng động lực học tập của chúng. Do vậy giáo viên 
cần giảm mức độ học tập cho các em yếu. Chẳng hạn, để tạo cảm giác thành công cho 
học sinh, giáo viên đưa ra những câu hỏi dễ cho học sinh yếu (Ví dụ: dựa theo tranh, 
kể lại từng đoạn câu chuyện Mầu giấy vụn, hoặc câu chuyện Người thầy cũ có những 
nhân vật nào?) và câu hỏi khó cho học sinh khá, giỏi (Ví dụ: kể lại toàn bộ câu chuyện 
Người thầy cũ hoặc em mong muốn câu chuyện Sự tích cây vú sữa kết thúc như thế 
nào? Hãy kể lại đoạn cuối câu chuyện theo ý đó).
 Đánh giá điểm số vần chưa đủ để học sinh nhận biết về kết quả thực sự của mình. 
Học sinh không biết mình đã là tốt phần nào và cần cải thiện phần nào. Lời nhận xét 
của giáo viên cũng góp phần làm rõ kết quả và thúc đẩy động lực học tập của học sinh. 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_quan_ly_hoat_dong_day.docx