Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy nói và nghe môn tiếng Việt Lớp 2

docx 37 trang sangkienhay 12/03/2024 123215
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy nói và nghe môn tiếng Việt Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy nói và nghe môn tiếng Việt Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy nói và nghe môn tiếng Việt Lớp 2
 UBND HUYỆN THANH TRÌ
 TRƯỜNG TIỂU HỌC TẠ HOÀNG CƠ
 ***************
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG 
 DẠY NÓI VÀ NGHE MÔN TIẾNG VIỆT LỚP 2
 Lĩnh vực/Môn: Tiếng Việt
 Cấp học: Tiểu học
 Tác giả: Trần Thị Ngọc Ánh
 Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Tạ Hoàng Cơ 
 Chức vụ: Giáo viên
 Năm học: 2022 – 2023 + Luôn tạo hứng thú cho các em trong các giờ học bằng cách luôn thay đổi 
 hình thức, phương pháp dạy học. 
 + Tuyên dương khen thưởng kịp thời những em có nhiều cố gắng, có tiến 
 bộ trong việc “Tự tin kể chuyện”. 
 - Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng 
 kiến theo ý kiến của tác giả:
 + Giúp cho học sinh hình thành nhân cách con người qua những câu chuyện 
 hay.
 + Phong trào “thi kể chuyện” được phát triển và nhân rộng trong nhà 
 trường.
 + Góp phần rèn luyện đạo đức và tính cách con người.
 + Kể đúng, kể có sáng tạo, tạo lòng tự tin của học sinh, giúp học sinh tiếp 
 thu bài nhanh hơn, học tốt hơn.
 + Phát huy được các phẩm chất, năng lực theo mục tiêu của chương trình 
 GDPT 2018 đề ra.
 - Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng 
 kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu hoặc 
 áp dụng thử nếu có: 
 Áp dụng thành công những biện pháp của mình tôi đã giúp 85% học sinh 
 của lớp tự tin kể chuyện được và còn kể chuyện tốt. Ngoài ra lớp còn được nhà 
 trường tuyên dương khi học sinh có tiến bộ hơn trong môn Tiếng Việt ( Nói và 
 nghe).
 Danh sách những người đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến 
 lần đầu (nếu có):
 Nơi công Trình độ 
Số Ngày tháng Chức Nội dung công 
 Họ và tên tác (hoặc nơi chuyên 
TT năm sinh danh việc hỗ trợ
 thường trú) môn
1 Trần Thị Ngọc 10/05/1993 Trường TH GV ĐHSP Được BD 
 Ánh Tạ Hoàng Cơ
 Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và 
 hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
 Liên Ninh, ngày 19 tháng 4 năm 2023
 Người nộp đơn
 (Ký và ghi rõ họ tên)
 Trần Thị Ngọc Ánh 3 Sáng kiến có tính hiệu quả
 3.1 Có hiệu quả, đem lại lợi ích kinh tế - xã hội, có tính lan tỏa 25
 3.2 Có hiệu quả, đem lại lợi ích kinh tế - xã hội 20
 3.3 Có hiệu quả, lợi ích phù hợp với mức độ phù hợp tại đơn vị 10
 3.4 Không có hiệu quả cụ thể 0
Nhận xét: Sáng kiến có tính ứng dụng thực tiễn, mang lại lợi ích kinh tế - xã hội và hiệu 
quả thiết thực. HS hứng thú, tích cực học môn Tiếng Việt (phần Đọc). SKKN có tính lan 
tỏa trong nhà trường.
 4 Điểm trình bày
 4.1 Trình bày khoa học, hợp lý 8/10
 4.2 Trình bày chưa khoa học, chưa hợp lý 5
Nhận xét: Trình bày đúng thể thức văn bản, nội dung sắp xếp khoa học, hợp lí đảm bảo 
tính logic.
Tổng cộng: 83 điểm Đánh giá:  Đạt (≥70 điểm) ☐ Không đạt
 CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN
 Trần Thị Bẩy PHẦN 1 - PHẦN MỞ ĐẦU
 1. Lí do chọn đề tài
 Bậc Tiểu học là bậc học quan trọng, đặt nền móng cho giáo dục phổ thông. 
Bởi giáo dục tiểu học nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho 
sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ, thể chất và các kỹ 
năng cơ bản để học sinh học tiếp các bậc tiếp các bậc học sau.
 Nói và nghe là một phân môn lí thú và hấp dẫn ở các lớp trong trường tiểu 
học. Tiết kể chuyện thường được các em đón nhận với tâm trạng hào hứng và 
thích thú. Khác với các giờ học khác: tập đọc, luyện tập ở tiết nói và nghe , 
giáo viên và học sinh gần như là thoát li khỏi sách giáo khoa mà được giao hoà 
tình cảm một cách hồn nhiên thông qua nội dung những câu chuyện được kể. 
Thông qua lời kể của giáo viên và lời kể của học sinh mọi người như được sống 
trong những giây phút hồi hộp đầy cảm xúc ngoài qui chế thông thường của một 
tiết lên lớp bởi không có những hiện tượng căng thẳng như quay cóp, sao 
chépGần như mối quan hệ thầy trò mới được xác lập giữa một không khí mới, 
không khí cổ tích, không khí của sự khích lệ, không khí của lòng vị tha rất đỗi 
thanh tao.
 Thực tế hiện nay trong chương trình lớp 2 tiết Nói và nghe gắn bó chặt chẽ 
với phân môn Tập đọc ở lớp 2, nội dung tiết Nói và nghe là kể lại câu chuyện 
học sinh đã học trong bài tập đọc ở hai tiết mở đầu mỗi tuần.
 Kể chuyện ở đây là học sinh tái hiện lại câu chuyện có sáng tạo bài đọc 
vừa học. Qua thực tế giảng dạy nhiều năm, tôi thấy dạy học sinh kể được một 
câu chuyện hay, giàu cảm xúc là một kĩ năng khó của phân môn nói và nghe. 
Bởi vậy, hiệu quả giờ dạy kể chuyện còn rất hạn chế. Nhưng làm thế nào để dạy 
tốt tiết kể chuyện? Làm thế nào để gây hứng thú đối với các em? Đó là một vấn 
đề quan trọng được các nhà giáo dục quan tâm. Là một giáo viên trực tiếp giảng 
dạy lớp 2 bản thân tôi rất trăn trở cho chất lượng dạy tiết nói và nghe, với mục 
đích rèn kĩ năng kể chuyện cho học sinh không chỉ đọc thuộc, nhớ nội dung câu 
chuyện mà còn phải biết nhập vai để thể hiện được giọng kể, nét mặt, điệu bộ, 
cử chỉ, phù hợp với mỗi nhân vật trong từng đoạn chuyện, trong từng câu 
chuyện kể. Chính điều đó mà tôi cũng đã suy nghĩ và nghiên cứu vấn đề này: 
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy Nói và nghe môn Tiếng Việt lớp 2”.
 2. Mục đích nghiên cứu
 - Đề tài nhằm mục đích nghiên cứu, đề xuất những biện pháp đổi mới 
nhằm nâng cao chất lượng dạy Nói và nghe lớp 2 ở trường Tiểu học.
 - Rút ra những kinh nghiệm dạy Nói và nghe lớp 2 nhằm nâng cao hiệu 
quả trong quá trình dạy phân môn Tiếng Việt nói chung và dạy tiết nói và nghe 
nói riêng trong trường Tiểu học. PHẦN 2 - NỘI DUNG
 CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN, CƠ SỞ THỰC TIỄN
 1. Cơ sở lí luận
 Môn Tiếng Việt hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử 
dụng Tiếng Việt (nghe, nói, đọc, viết) để học tập và giao tiếp trong cả môi 
trường hoạt động của lứa tuổi. Thông qua việc học Tiếng Việt, các em được rèn 
luyện các thao tác tư duy, bồi dưỡng cho các em những tư tưởng, tình cảm trong 
sáng lành mạnh, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ 
nghĩa. Tiếng Việt còn được coi là bộ môn công cụ giúp các em tiếp thu tri thức ở 
các bộ môn khoa học khác thông qua con đường nghe - nói - đọc - viết.
 Đặc biệt hơn môn Tiếng Việt còn cung cấp cho học sinh hệ thống từ ngữ 
và kỹ năng sử dụng từ ngữ để diễn đạt chính xác bởi từ là đơn vị trung tâm của 
ngôn ngữ. Vốn từ của học sinh phong phú và nắm chắc được nghĩa của từ thì 
giúp các em trình bày tư tưởng tình cảm trong sáng, đặc sắc. Vì điều kiện hàng 
đầu để phát triển ngôn ngữ chính là số lượng từ học sinh nắm được cho nên ở 
Tiểu học từ ngữ không chỉ được dạy ở phân môn Luyện từ và câu mà còn được 
dạy ở các phân môn như: Tập đọc, Nói và nghe, Luyện tập, Viết 1, Viết 2 và các 
môn khác như Toán, Tự nhiên và xã hội, Đạo đức, Hoạt động trải nghiệm,
 Để thực hiện mục tiêu “Hình thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử 
dụng Tiếng Việt” để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa 
tuổi, cũng như sách Tiếng Việt lớp 1, 3, 4, 5 sách giáo khoa Tiếng Việt 2 lấy 
nguyên tắc giao tiếp làm định hướng cơ bản.
 Quan điểm dạy giao tiếp được thể hiện trên cả 2 phương diện: Nội dung và 
phương pháp dạy học. Về nội dung, thông qua các môn Tập đọc, Viết 1, Luyện 
tập 1, Nói và nghe, Luyện tập 2, Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 tạo ra những môi 
trường giao tiếp có chọn lọc để học sinh mở rộng vốn từ theo định hướng, trang 
bị những tri thức và phát triển các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt trong giao tiếp. Về 
phương pháp dạy học, các kỹ năng nói trên được dạy thông qua nhiều bài tập 
mang tính tình huống, phù hợp với những tình huống giao tiếp tự nhiên.
 2. Cơ sở thực tiễn:
 Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới chương trình và sách giáo 
khoa là đổi mới phương pháp dạy và học: Chuyển từ phương pháp truyền thụ sang 
phương pháp tích cực hoá hoạt động của người học, trong đó thầy giáo (cô giáo) 
đóng vai trò người tổ chức hoạt động của học sinh, mỗi học sinh đều được bộc lộ 
mình và phát triển.
 - Nói và nghe trang bị kiến thức và rèn luyện các kỹ năng kể cho học sinh. - Học sinh nhiều bạn còn nhút nhát, hay ngại, có những HS mặc dù đã chuẩn 
bị bài ở nhà, nắm được nội dung câu chuyện nhưng vẫn chưa mạnh dạn xung 
phong, chưa bộc lộ được hết biểu cảm, cảm xúc của bản thân.
2.2. Về phía học sinh:
 - Học sinh có nhiều nhóm đối tượng, mặt bằng dân trí không đồng đều. Một 
bộ phận phụ huynh có nhận thức về giáo dục còn hạn chế nên phó mặc việc học 
hành của con em mình cho nhà trường, trăm sự nhờ thầy cô.
 - Địa phương có nhiều đối tượng là người nhập cư đến thuê trọ sinh sống, 
nghề nghiệp không ổn định nên cuộc sống còn nhiều khó khăn, rất nhiều học sinh 
bố mẹ đi làm ăn xa, ở với ông bà già yếu, không có sự quan tâm của gia đình nên 
việc học tập của các em còn chểnh mảng.
3. Phân tích, đánh giá các vấn đề thực trạng đề tài đã đặt ra
 - Như chúng ta đã biết, các câu chuyện kể trong tiết nói và nghe lớp 2 là 
những câu chuyện trong bài tập đọc đầu tuần chứ không phải là những câu 
chuyện mới lạ được biên soạn thành sách truyện đọc riêng như trước. Chính điều 
này đã giúp học sinh có nhiều thuận lợi trong việc nhớ và thuộc nội dung câu 
chuyện nhưng lại hạn chế về sự hứng thú, sự hào hứng chờ đợi và kể chuyện bởi 
những câu chuyện kể này đã biết.
 - Khi kể chuyện trong nhóm, trước lớp, một số em chưa nhớ nội dung truyện 
còn ngại ngùng không dám bộc lộ khả năng của mình.
 Từ cơ sở khoa học và thực tiễn, để khắc phục thực trạng tôi đã tập trung hơn, 
tiến hành khảo sát học sinh lớp 2C tại thời điểm đầu học kỳ I năm học 2022-2023 
với kết quả như sau: 
 Học sinh
 TT Lớp Sĩ số Học sinh kể tốt Học sinh biết kể.
 chưa biết kể.
 1 2C 32 10= 31,2% 17= 53,1% 5= 15,7%
 * Nguyên Nhân
 - Do một số cha mẹ học sinh chưa quan tâm đến con cái.
 - Nhiều học sinh còn ngại ngùng không muốn bộc lộ khả năng của mình.
 - Một số giáo viên chưa thấy hết được tầm quan trọng của mỗi phương pháp dạy 
học, chưa khai thác hết mặt mạnh, khắc phục những tồn tại của mỗi phương pháp. Do 
đó, việc lựa chọn và vận dụng các phương pháp dạy học chưa linh hoạt, chưa đạt hiệu 
quả cao. 2.2. Biện pháp 2. Tổ chức một số trò chơi trong giờ nói và nghe.
 Để tiết nói và nghe của học sinh có hiệu quả cần phải thường xuyên thay 
đổi phương pháp và hình thức học tập tạo cho học sinh niềm vui cùng sự hứng 
thú trong khi kể chuyện. Chính vì thế, trong các giờ kể chuyện tôi thường sử 
dụng một số trò chơi sau:
 2.1. Thi kể chuyện truyền điện. 
 * Mục tiêu
 Mục đích của hình thức này là tôi rèn cho học sinh kĩ năng kể đúng, kể đủ ý 
và mạch lạc từng đoạn của câu chuyện theo gợi ý của đoạn hoặc tranh minh hoạ. 
Học sinh biết phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa các bạn để kể cho hấp dẫn và 
liền mạch. 
 a. Kể chuyện truyền điện theo tranh
 * Chuẩn bị
 - 2 nhóm học sinh tham gia cuộc thi (số học sinh bằng nhau). 
 - Bộ tranh vẽ minh hoạ từng đoạn của câu chuyện (tranh vẽ trên khổ giấy A3)
 * Luật chơi
 - Giáo viên treo bộ tranh minh hoạ cho từng đoạn của câu chuyện. 
 - Hai đội lên "bắt thăm" hoặc "oẳn tù tì" để chọn đội kể trước. 
 - Giáo viên mời học sinh 1 của 1 đội (xung phong) đứng lên kể đoạn 1 của 
câu chuyện theo nội dung của tranh số 1. Sau khi học sinh 1 kể xong em đó có 
quyền chỉ định học sinh số 2 của đội mình kể tiếp đoạn 2 của câu chuyện theo nội 
dung tranh số 2. Nếu học sinh số 2 kể được đoạn 2 thì bạn lại có quyền chỉ định 
tiếp học sinh 3 của đội mình kể tiếp đoạn 3 của câu chuyện. Nếu học sinh số 2 
không kể được đoạn 2 thì cả lớp đếm từ "một đến năm". Nếu vẫn không kể được 
thì học sinh 1 chỉ định bạn học sinh số 3 của đội mình kể tiếp đoạn 2Cứ như 
thế cho đến khi kể xong câu chuyện. Bạn học sinh số 2 coi là bị điện giật. 
 + Tiến hành tương tự với đội số 2. 
 * Tiêu chí đánh giá:
 - Kể đủ chi tiết, rõ trình tự diễn biến, đúng tranh bị chỉ định. Khi kể có sự 
sáng tạo, thái độ, cử chỉ phù hợp với đặc điểm nhân vật  
 - Kể khá đầy đủ chi tiết, tương đối rõ trình tự diễn biến đúng tranh bị chỉ 
định. 
 - Kể chưa đầy đủ chi tiết, chưa thật rõ trình tự diễn biến của tranh, giọng điệu 
và cử chỉ chưa phù hợp với đặc điểm nhân vật. 
 * Kết luận:
 - Đội có nhiều người bị điện giật là đội thua cuộc. 
 - Giáo viên tuyên dương đội thắng cuộc. 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_chat_luong_d.docx