Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy dạng toán Đại lượng, đo đại lượng ở Lớp 2
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy dạng toán Đại lượng, đo đại lượng ở Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy dạng toán Đại lượng, đo đại lượng ở Lớp 2
Phương pháp dạy dạng toán “Đại lượng, đo đại lượng” ở lớp 2 MỤC LỤC 1. Danh mục chữ cái viết tắt Trang 2 2. Phần thứ nhất : Đặt vấn đề Trang 3 3. Phần thứ hai : Nội dung Trang 4 3.1 Cơ sở lý luận của vấn đề Trang 4 3.2 Thực trạng của vấn đề Trang 4 3.3 Các biện pháp đã tiến hành để giảI quyết vấn đề Trang 5 3.4 Hiệu quả của SKKN Trang 9 4. Kết luận chung Trang 11 Họ và tên : Hà Thị Thu 1 Phương pháp dạy dạng toán “Đại lượng, đo đại lượng” ở lớp 2 Phần thứ hai :Nội dung I. Cơ sở lí luận của vấn đề - Học sinh được giới thiệu thêm về: + Các đơn vị đo độ dài: kilômét, Milimét + Cách đọc các loại lịch (lịch quyển, lịch bóc) và cách xem đồng hồ. Điều này tạo cho học sinh tăng cường tính thực hành, củng cố các kiến thức số học, tích luỹ thêm vốn kiến thức thực tế, đời sống và thấy được những ứng dụng của môn Toán (ví dụ: Biết được quãng đường Hà Nội - Hải Phòng là 103 km, bề dầy của chiếc thước kẻ dẹp dài 2mm). Học sinh tăng cường rèn luyện khả năng thực hành đo và ước lượng phương pháp các đại lượng phương pháp đặc trưng ở tuyến kiến thức này là phương pháp thực hành - luyện tập kết hợp với phương pháp trực quan. Thông qua thực hành để hình thành biểu tượng, thực hành chuyển đổi đơn vị đo, thực hành tính toán trên các số đo; thực hành đo và tập ước lượng. Xuất phát từ những thực tế về yêu cầu nội dung khi dạy dạng Toán Đại lượng, đo đại lượng ở lớp 2, tôi có một số kinh nghiệm khi dạy dạng toán này, mong muốn với kinh nghiệm, phương pháp dạy học này đã khẳng định được đây không phải là phương pháp tối ưu nhất nhưng cũng là một trong những phương pháp đổi mới dạy học Toán 2 ở các trường Tiểu học khi áp dụng chương trình mới theo kiểu phân hoá các đối tượng học sinh: khá, giỏi, trung bình, yếu. II. Thực trạng của vấn đề 1. Thuận lợi: - Ban giám hiệu luôn quan tâm đến chất lựơng dạy và học - Học sinh đa số ham học - Phụ huynh có sự quan tâm 2. Khó khăn Họ và tên : Hà Thị Thu 3 Phương pháp dạy dạng toán “Đại lượng, đo đại lượng” ở lớp 2 giúp học sinh cảm nhận về thời gian thông qua tranh ảnh, các trò chơi học tập hoặc dạo chơi ngoài giờ lên lớp. 2. Nhận biết các đơn vị đo đại lượng a. Nhận biết về các đơn vị đo độ dài Sau khi học Xăngtimét là đơn vị đo độ dài tương đối dễ nhận biết ở lớp 1. Đến lớp 2 ngay đầu học kỳ I học sinh được học về Đềximét rồi mới học đến Mét khó hơn (mặc dù mét là đơn vị đo độ dài cơ bản) gặp khó khăn nhất là khi học sinh học về các đơn vị đo Kilômét, Milimét. Cũng như chương trình cải cách giáo dục, việc học các kiến thức về đo đại lượng gắn bó chặt chẽ với các kiến thức số học. Hệ thống đơn vị đo độ dài được mở rộng dần dựa trên cơ sở mở rộng các vòng số. Ví dụ: Mét gắn bó với các số trong phạm vi 100, Kilômét gắn bó với các số trong phạm vi 1000. Hình thành cho học sinh biểu tượng cụ thể về đo độ dài của 1m, 1dm, 1mm. Chẳng hạn cho học sinh sải tay để đo độ dài của một chiếc thước mét từ đó hình dung thế nào là độ dài một mét. Bước đầu giúp học sinh thấy được khi đo một độ dài bằng các đơn vị đo khác nhau sẽ được các số đo khác nhau. b. Biết cách đọc, viết các số đo đại lượng theo đơn vị đo cần giúp học sinh biết đọc và viết đúng các chữ viết tắt của các đơn vị đo theo quy ước quốc tế. Sửa chữa các sai sót của học sinh nếu có. Ví dụ: Học sinh đọc Kilômét thành milômét giáo viên cần biết phân biệt một cách chính xác các khái niệm như đại lượng, số đo của một đại lượng, để giúp học sinh ngăn ngừa những sai lầm kiểu như đồng nhất đoạn thẳng với độ dài đoạn thẳng. Ví dụ: Giáo viên không nên nói đoạn thẳng AB dài hơn 1dm mà phải nói là độ dài đoạn thẳng AB lớn hơn 1dm. 3. Nắm được quan hệ giữa các đơn vị đo. Tập chuyển đổi các đơn vị đo. - Nắm được một số quan hệ giữa các đơn vị đo độ dài đã học Họ và tên : Hà Thị Thu 5 Phương pháp dạy dạng toán “Đại lượng, đo đại lượng” ở lớp 2 * Khi dạy bài với đơn vị đo là khối lượng - Đối với học sinh yếu chỉ cần làm được những phép tính cộng, trừ có đơn vị là kg, Ví dụ: 23kg + 42kg = 65kg 10kg - 5kg = 5kg - Đối với học sinh trung bình: Làm thêm được những bài toán có lời văn mà có đơn vị đo là kg. Ví dụ: Bao gạo to cân nặng 25kg, bao gạo bé nhẹ hơn bao gạo to 10kg. Hỏi bao gạo bé nặng bao nhiêu kg? - Đối với học sinh khá giỏi: Làm những bài toán về dạng cân đòi hỏi phải tư duy cao hơn. Ví dụ: Có 1 cân đĩa với 2 quả cân 1kg và 2kg. Làm thế nào sau 2 lần cân, lấy ra được 9kg gạo? Giáo viên hướng dẫn cho học sinh phải tiến hành cân 2 lần + Lần 1: Cân như thế nào để lấy được 3kg gạo? + Lần 2: Cân như thế nào để lấy được 6kg gạo? * Khi dạy bài đơn vị đo là lít - Đối với học sinh yếu: Phải biết làm các phép tính cộng, trừ với đơn vị đo là lít Ví dụ: 15lít + 5 lít = 20lít 18lít - 5 lít = 13lít - Đối với học sinh trung bình: Biết giải các bài toán với đơn vị đo là lít Ví dụ: Thùng thứ nhất chứa 12lít dầu, thùng thứ 2 chứa 20lít dầu. Hỏi cả hai thùng chứa bao nhiêu lít dầu? - Đối với học sinh khá giỏi: Phải biết đong nước, rượu, dầu từ can này đổ sang can kia ở mức độ cao hơn Ví dụ: Có 1 can 7lít và 1 can 2lít. Làm thế nào để đong được 3 lít nước Họ và tên : Hà Thị Thu 7 Phương pháp dạy dạng toán “Đại lượng, đo đại lượng” ở lớp 2 Đối với bài yêu cầu tìm thời gian xuất phát (tức là thời gian bắt đầu đi) Ví dụ: Bố làm việc ở nhà máy 8giờ, Bố về nhà lúc 3giờ chiều. Hỏi Bố đi là lúc mấy giờ? Giáo viên phải gợi ý để học sinh biết được muốn tìm thời điểm xuất phát lúc mấy giờ phải lấy thời điểm bố về nhà trừ đi thời gian bố làm việc ở nhà máy. IV. Kết quả cụ thể giá trị lợi ích của sáng kiến. Như vậy phương pháp dạy học trên đã tìm ra con đường các hình thức tổ chức, các phương pháp làm việc thích hợp cùng các phương tiện dạy học phù hợp để truyền thụ kiến thức cho từng loại đối tượng học sinh yếu, trung bình, khá giỏi. Với phương pháp này đã phát huy được các hoạt động tư duy tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Kết quả giờ dạy dạng toán này làm học sinh tập trung hứng thú và học tập tích cực hơn. Trong giờ học 100% học sinh đều tự giác hoàn thành các yêu cầu của giờ học, mặc dù kết quả học tập phụ thuộc và năng lực của từng đối tượng học sinh. Không khí lớp học sôi nổi học sinh không những chủ động tích cực trong học tập mà còn được rèn luyện khả năng giao tiếp trình bày ý kiến của mình trước các bạn. Lớp học có phần ồn ào hơn nhưng khuyến khích được học sinh thể hiện sự tìm tòi sáng tạo của mình, giờ học luôn ở trạng thái động. - Trong thời gian học cá nhân (từ 8 đến 10 phút) học sinh khá giỏi đã có thể hoàn thành hầu hết các yêu cầu cần thiết. Học sinh trung bình hoàn thành được 3/4 khối lượng công việc và học sinh yếu kém cũng hoàn thành được 1/2 công việc. - Trong thời gian học theo nhóm, học sinh chủ động mạnh dạn trình bày ý kiến của mình. Hầu hết học sinh được thể hiện quan điểm của mình trước các vấn đề học tập từ rụt rè đến mạnh dạn và năng động, các em đã làm chủ được bản thân. Ngoài ra quá trình thảo luận nhóm học tập còn bổ sung nhiều kiến thức cho các em. Họ và tên : Hà Thị Thu 9 Phương pháp dạy dạng toán “Đại lượng, đo đại lượng” ở lớp 2 Họ và tên : Hà Thị Thu 11
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_day_dang_toan_dai_luong_do.doc