Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp giúp học sinh Lớp 2 giải toán có lời văn
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp giúp học sinh Lớp 2 giải toán có lời văn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài biện pháp giúp học sinh Lớp 2 giải toán có lời văn
PHÒNG GD & ĐT LỆ THỦY TRƯỜNG TIỂU HỌC PHÚ THUỶ BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN CUỐI NĂM GIÁO VIÊN : NGUYỄN THỊ THƯƠNG Năm học : 2016 - 2017 B. PHẦN NỘI DUNG 1. Thực trạng a. Về phía học sinh Lớp 2B có 28 học sinh. Đa số các em là con gia đình nông dân thuộc hộ nghèo, hộ cận nghèo, cha mẹ ít quan tâm đến việc học hành của con em mình. Thực sự đây là lớp mà GV chủ nhiệm nào khi gặp cũng cần có sự quan tâm và lo lắng. Nhìn chung phụ huynh chưa nhận thức được tầm quan trọng của việc học Toán nói chung và việc giải toán có lời văn nói riêng của học sinh nên phụ huynh chưa có sự đầu tư đúng mức. Đầu năm học, đối với chương trình môn toán lớp 2. Nhìn chung các em đều thực hiện được các phép tính cộng, trừ có nhớ trong phạm vi 100, nắm được tên gọi, thành phần và kết quả phép cộng, trừ, hay tìm x trong bài toán, nhưng ở phần giải toán có lời văn thì lớp 2B có 59,3% học sinh giải và trình bày được, 10% các em biết tóm tắt bài toán, ghi đúng lời giải nhưng thực hiện phép tính thì sai. 30,7% các em chưa biết ghi lời giải của bài toán, chưa có em nào có sáng tạo hay có lời giải hay hơn, gọn hơn. Đặc biệt là những em trung bình, yếu, việc đọc, viết đã chậm thì giải toán có lời văn lại càng khó khăn hơn rất nhiều như các em: ( Giang, Toàn, Lê Huy ) b. Về phía giáo viên Trong quá trình dạy học theo mô hình VNEN người giáo viên chưa có sự chú ý đúng mức tới việc làm thế nào để học sinh nắm vững được lượng kiến thức, đặc biệt là dạng giải toán có lời văn. Nguyên nhân là do giáo viên mới tiếp cận với chương trình dạy học theo kiểu mới này. Thời gian dành nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy học mới này còn hạn chế. Bên cạnh đó việc ý thức về tầm quan trọng của việc giải toán có lời văn của các em chưa đầy đủ. Từ đó dẫn đến tình trạng học sinh lên lớp 3 vẫn còn nhiều em chưa ghi được lời giải và phép tính đúng cho một bài toán. 2. Giải pháp giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn 2.1. Chuẩn bị cho việc giải toán: Để giúp học sinh có kĩ năng trong việc giải toán có lời văn thì chúng ta không những hướng dẫn các em trong giờ học toán khi các em cứu trợ mà còn luyện cho các em kĩ năng nói trong các tiết học ở môn Tiếng Việt. Chúng ta đã biết các em còn nhỏ, còn rụt rè chưa tự tin trong giao tiếp. Chính vì vậy khi dạy chương trình VNEN các em được hoà đồng cùng bạn bè, học hỏi ở bạn bè và mạnh dạn đưa thẻ cứu trợ khi làm bài chưa được. Giáo viên gần gũi với học sinh, khuyến khích các em trong giao tiếp, tổ chức các trò chơi để các em luyện nói nhiều để giúp các em có vốn từ lưu thông. Bên cạnh đó người giáo viên phải chú ý nhiều đến kĩ năng đọc và phần tìm hiểu bài của phân môn Tiếng Việt để từ đó các em có kĩ năng phán đoán yêu cầu cơ bản mà bài tập đề ra. 2. 2. Giúp học sinh nắm được trình tự của việc giải một bài toán có lời văn: a) Tìm hiểu nội dung bài toán: Đọc đề, tìm hiểu đề bài. + Bài toán hỏi gì ? ( Tấm vải tím dài mấy đề xi mét ). + Trong đó dữ kiện nào đã biết ? ( Tấm vải tím ngắn hơn tấm vải xanh 15dm ) + Mà tấm vải xanh đề toán đã cho biết là bao nhiêu dm ?(Vải xanh dài 34 dm ) + Vậy muốn biết tấm vải tím dài bao nhiêu dm ta thực hiện phép tính gì ? ( Thực hiện phép tính trừ 34 trừ đi 15 ) . Cách khác : Học sinh chọn và nêu phép tính sau đó nêu lời giải. + Vậy kết quả cuối cùng có phải là đáp số của bài toán không ? (Đó là đáp số của bài toán ). c) Thực hiện cách giải quyết bài toán : - Quá trình tìm tòi cách giải quyết, học sinh tự trình bày bài giải của mình có thể làm vở ô li, vở nháp. - Hoặc tạo sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giữa các đối tượng học sinh trong nhóm, học sinh trong nhóm trao đổi ý kiến về cách làm bài hoặc giải bài toán. - Giáo viên có thể lựa chọn nội dung cho thật tinh giản, xác định rõ các kiến thức cơ bản, các thuật ngữ quan trọng trong bài, lời giải thích phải ngắn, gọn, nhấn mạnh các chỗ cần thiết, minh họa bằng nhiều ví dụ quen thuộc ( gợi ý một số đặc điểm riêng của đơn vị. Đối với bài toán này đơn vị của nó là dm). - Sau khi đã hướng dẫn , giáo viên cho các nhóm làm bài vào vở. Bài toán này có một phép tính nhưng có thể có nhiều lời giải khác nhau mà vẫn phù hợp .Việc cho học sinh tự tìm nhiều lời giải khác nhau có tác dụng lớn trong việc gây hứng thú cho học sinh, thúc đẩy các cố gắng tìm tòi, sáng tạo và rèn luyện óc suy nghĩ linh hoạt, độc lập . Học sinh có thể nêu lời giải như sau : Số dm mảnh vải tím dài là ( Mảnh vải tím dài là / Chiều dài mảnh vải tím là / Độ dài mảnh vải tím là ...) 34 – 15 = 19 ( dm ). Đáp số : 19 dm. d) Kiểm tra cách giải bài toán : - Việc kiểm tra này nhằm phân tích cách giải đúng hay sai, sai chỗ nào để sửa chữa. Giáo viên hướng dẫn học sinh kiểm tra lại trình tự các bước giải thử lại phép tính đã thực hiện trong bài giải ... Từ đó giúp các em có thói quen kiểm tra đánh giá, sửa bài. - Với kết quả bài toán trên có thể hướng dẫn học sinh kiểm tra xem mảnh vải tím có phải là 19 dm không ? - Hay khi cộng 19 dm của mảnh vải tím với 15 dm chiều dài tấm vải xanh dài hơn có bằng chiều dài tấm vải xanh là 34 dm không ? Ta xét tính hợp lý của đáp số. em cùng bàn bạc, phân tích thì nhất định sẽ tìm cách giải hay. Nhờ như vậy các em tự tin hơn trong khi làm bài. - Giáo viên cần động viên, tuyên dương kịp thời khi đến từng nhóm kiểm tra để học sinh có sự hứng thú trong học tập. Nhất là các học sinh Trung bình, yếu. Giáo viên phải theo dõi nhận xét, bổ sung khuyến khích, khen các em khi các em trả lời đúng. - Việc tổ chức hướng dẫn cho học sinh làm bài tập là việc làm rất quan trọng, nên mỗi câu hỏi của giáo viên đều phải có nội dung chính xác phù hợp với mục đích yêu cầu, nội dung bài học, câu hỏi rõ ràng. Cùng nội dung có thể đặt câu hỏi dưới những hình thức khác nhau để giúp học sinh nắm vững kiến thức và linh hoạt trong suy nghĩ. - Tổ chức học sinh khá giỏi trong nhóm thường xuyên giúp đỡ các bạn yếu, kém, nếu các bạn có yêu cầu về phương pháp vận dụng kiến thức. - Tổ chức kèm cặp ,phụ đạo trong điều kiện thời gian qui định một số buổi thứ hai trong ngày . Trong các buổi này chủ yếu là việc lĩnh hội các kiến thức giảng dạy trên lớp , nếu cần ôn tập , củng cố kiến thức để các em nắm vững chắc hơn . - Phân tích cụ thể các sai lầm và hướng dẫn phương pháp giải để các em nắm vững . - Cải tiến giảng dạy sao cho sát đối tượng , nói chuỵên riêng và giải thích thêm cho các học sinh trong từng nhóm để học sinh lĩnh hội được nội dung cơ bản của bài học . - Cần hướng dẫn cụ thể khi kiểm tra từng nhóm , Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày cách giải hay câu trả lời bằng cách diễn đạt của mình , không nhất thiết phải lắp nguyên văn theo sách . - Củng cố kiến thức dưới các hình thức tổ chức trò chơi, tạo sự vui vẻ, hứng thú trong học tập và khắc sâu kiến thức đã học. * Bên cạnh đó người giáo viên cần phải : + Người giáo viên rèn thường xuyên kĩ năng nghe, nói, đọc, viết trong môn Tiếng Việt. Luyện kĩ năng hỏi - đáp để các em có vốn từ lưu loát hơn. + Người giáo viên kiên trì uốn nắn học sinh trong mọi lúc trong giờ học. + Nghiên cứu kĩ giáo án, lập kế hoạch cụ thể cho từng tiết. Trong tiết dạy phải kiên trì giúp đỡ từng em, biết cách gợi mở và nâng cao tri thức mỗi em. + Người giáo viên lên lớp phải có tác phong nhẹ nhàng, giọng nói, lời giảng rõ ràng dễ hiểu cũng giúp cho học sinh tiếp thu nhanh và làm bài tốt hơn.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_2.doc