Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy giải Toán có lời văn cho học sinh Lớp 2 Trường Tiểu học Phú Sơn - Ba Vì - Hà Nội
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy giải Toán có lời văn cho học sinh Lớp 2 Trường Tiểu học Phú Sơn - Ba Vì - Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy giải Toán có lời văn cho học sinh Lớp 2 Trường Tiểu học Phú Sơn - Ba Vì - Hà Nội
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài Xuất phát từ mục đích, yêu cầu của chương trình Toán lớp 2 - Chương trình giáo dục phổ thông 2018, với những hạn chế về tâm lý lứa tuổi, việc đọc, tìm hiểu đề toán, tóm tắt đề, đặt câu lời giải, phép tính, đáp số đối với các em còn gặp nhiều khó khăn. Việc nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở Tiểu học nói chung và học sinh lớp 2 nói riêng, bản thân tôi cũng như nhiều bạn đồng nghiệp còn băn khoăn trăn trở, làm thế nào để giúp học sinh lớp 2 giải toán có lời văn đạt kết quả cao. Bản thân tôi nhận thấy cần phải nghiên cứu, tìm các biện pháp giảng dạy thích hợp, giúp các em giải bài toán một cách vững vàng; mặt khác giúp các em có phương pháp suy luận thông qua cách trình bày, lời giải đúng, ngắn gọn, sáng tạo trong cách thực hiện. Từ đó giúp các em hứng thú, say mê học toán. Với những lý do trên, tôi đã chọn giải pháp là nghiên cứu thực hiện sáng kiến: “Một số biện pháp dạy giải toán có lời văn cho học sinh lớp 2”. 2. Mục đích nghiên cứu Đề tài này nhằm đưa ra được một số biện pháp giúp học sinh biết cách tóm tắt đề toán, phương pháp giải bài toán có lời văn ở tiểu học nói chung và lớp 2 nói riêng. Có định hướng giải phù hợp với trình độ nhận thức, đặc điểm tâm lí của học sinh lớp 2, góp phần cải thiện, nâng cao chất lượng bồi dưỡng và rèn luyện kĩ năng giải toán cho học sinh. 3. Thời gian, đối tượng, phạm vi 3.1 Thời gian nghiên cứu: Bắt đầu nghiên cứu từ đầu năm học 2021 - 2022. Các năm tiếp theo tiếp tục bổ sung, phát triển, hoàn thiện. 3.2 Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu về phương pháp giải các bài toán có lời văn trong chương trình toán lớp 2. Khả năng đọc hiểu đề toán, tìm hiểu, tóm tắt và giải bài toán có lời văn của học sinh lớp 2 và yêu cầu cơ bản về kiến thức kỹ năng trong sách giáo khoa môn Toán lớp 2 mới - CTGDPT 2018. 3.3 Phạm vi nghiên cứu: Học sinh lớp 2A - Trường Tiểu học Phú Sơn - Ba Vì - Hà Nội II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận Tư duy của học sinh Tiểu học đang ở giai đoạn đầu của sự phát triển. Các em sẽ dễ nhận thức được những gì cụ thể, gần gũi, thường bắt đầu bằng những biểu tượng đơn giản nên kiến thức toán học được hình thành chủ yếu bằng con đường thực nghiệm. Xu thế dạy học toán theo cách tổ chức cho học sinh hoạt động bằng tay với các đồ vật, hoạt động quan sát với các mô hình, hình vẽ, ... Vì vậy, phương pháp dạy học nhất thiết phải mang tính trực quan, sinh động. Nhưng làm thế nào để học sinh hiểu và giải toán theo yêu cầu của chương trình mới, đó là điều cần phải trao đổi nhiều đối với chúng ta - những người trực tiếp giảng dạy cho các em nhất là việc: Đặt câu lời giải cho bài toán. Nếu như học sinh nắm bắt được cách giải toán ngay từ lớp 2 thì đến các lớp trên các em dễ dàng tiếp thu, nắm bắt và gọt giũa, để thêm vào hành trang kiến thức của mình để tiếp tục học tốt ở các lớp sau. 2. Cơ sở thực tiễn Với hơn 20 năm dạy học ở trường Tiểu học, một điều khiến tôi trăn trở băn khoăn và suy nghĩ rất nhiều, đó là làm thế nào khắc phục được tình trạng học sinh Để khắc phục những hạn chế và tìm ra biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh. Tôi đã tiến hành một số biện pháp sau: 4. Các biện pháp thực hiện. 4.1. Điều tra, phân loại đối tượng học sinh trong lớp. Do tình hình dịch bệnh covid kéo dài các con phải học trực tuyến ngay buổi học đầu tiên Mặc dù dạy học online nhưng tôi vẫn rất chú ý đến việc nắm kiến thức của các con nhất là môn Toán. Qua điều tra đầu năm bằng việc cho các con làm bài kiểm tra, tôi đã chấm bài các con qua việc các con gửi bài trên zalo. Mặt khác qua các tiết dạy dạng bài này, tôi phân loại những em còn yếu về loại toán điển hình nào để tôi kịp thời kèm cặp các em. Lớp tôi có một số em giải toán còn yếu. Các em thường sợ làm dạng toán này. Các em không biết cách giải, hay trả lời sai, làm tính không đúng. Tôi luôn quan tâm động viên các em học sinh để các em chăm học, tích cực làm bài, các em tự tin vào khả năng của mình để suy nghĩ, phán đoán tìm cách giải đúng. Trong các giờ lên lớp tôi luôn động viên cho các em suy nghĩ tìm ra cách giải. Tôi thường xuyên kiểm tra bài làm của em trên lớp, chấm chữa cùng với học sinh để củng cố kiến thức. Tuyên dương khen thưởng kịp thời bằng nhận xét khen ngợi nếu các em có cố gắng (mặc dù chưa đạt yêu cầu) để các em phấn khởi học tập, xoá đi ấn tượng sợ giải toán. Ngoài ra, tôi yêu cầu các em làm lại bài toán này ở nhà để các em yếu kém nắm vững cách giải. Lần sau gặp loại bài như thế là làm được ngay. Tôi còn yêu cầu phụ huynh kết hợp chặt chẽ với giáo viên, có trách nhiệm hướng dẫn con học ở nhà giúp các em làm đầy đủ bài tập cô giao. Ngoài ra tôi còn giao cho những em giỏi toán ở lớp mỗi em giỏi giúp một em kém. Lập thành đôi bạn cùng tiến bằng cách: Giờ truy bài kiểm tra bài làm của bạn. Nếu bạn giải sai thì hướng dẫn giải lại cho bạn nắm được phương pháp giải toán. ( Nếu học sinh đi học trực tiếp) 4.2. Giảng bài mới kết hợp củng cố, vận dụng kiến thức đã học: Giảng bài mới trong tiết học Toán hết sức quan trọng. Học sinh có vận dụng luyện tập giải Toán đúng hay sai là ở chỗ này. Do vậy, trong khi dạy, tôi luôn bảo đảm truyền thụ đủ nội dung kiến thức của bài học bằng cách: - Chuẩn bị bài hết sức chu đáo, cẩn thận. Soạn bài theo đúng công văn 2345 của Bộ giáo dục trước một tuần để có thêm thời gian nghiên cứu, nắm chắc yêu cầu cần đạt của bài học. - Khi soạn bài, tôi luôn tìm hướng giảng bài mới một cách dễ hiểu nhất đối với trò mà vẫn phát huy được tư duy của trò, lấy "học sinh làm trung tâm". Không những soạn Kế hoạch bài dạy mà tôi còn rất trú trọng đến việc làm bài giảng điện tử Powerpoint trình chiếu với những hình ảnh phong phú, clip sinh động giúp cho học sinh tiếp thu kiến thức một cách nhanh nhất. Vì vậy, kết hợp với khâu chuẩn bị bài của học sinh, trong mỗi tiết dạy bài mới, tôi cung cấp đủ nội dung bài, đồng thời khuyến khích học sinh vận dụng kiến thức đã học có liên quan thực hiện phương châm "ôn cũ, học mới". Với cách thực hiện như thế, học sinh sẽ tiếp thu bài một cách nhẹ nhàng mà đầy đủ kiến thức, được củng cố kiến thức cũ có hệ thống, vận dụng giải Toán sẽ linh hoạt, không bị gò ép phụ thuộc, tạo cho học sinh có thói quen chủ động tích cực trong giải Toán. * Các hình thức tổ chức thực hiện: Thảo luận trong nhóm: Học sinh đọc kĩ đề bài, nhận xét dữ kiện, tóm tắt đề toán, tìm ra cách giải. Các em khá giỏi trong nhóm đưa ra một số câu hỏi để các bạn yếu hơn được trả lời, được tham gia ý kiến tìm ra cách giải bài toán. Với cách làm này học sinh mạnh dạn, tự tin vào bản thân, dần dần ham thích giải toán, để thể hiện khả năng chính mình. tư duy của học sinh. Các dạng toán có thể thực hiện được điều này như. * Dạng toán về nhiều hơn, ít hơn một số đơn vị. - Giúp học sinh nhận ra những dấu hiệu cơ bản của từng dạng toán: + Dạng toán "nhiều hơn" dấu hiệu để nhận ra đó là các từ "chìa khóa" như: "nhiều hơn"; "cao hơn"; "dài hơn"; "nặng hơn"... + Dạng toán "ít hơn" dấu hiệu để nhận ra đó là các từ "chìa khóa" như : "ít hơn"; "thấp hơn"; "kém"; "nhẹ hơn" “ ngắn hơn” ... - Bên cạnh đó khi hướng dẫn học sinh làm các bài toán nâng cao giáo viên phải hướng dẫn học sinh hiểu được bản chất của bài toán, khắc sâu kiến thức về giải toán cho học sinh, tránh hiện tượng học sinh làm bài một cách máy móc theo mẫu (thấy "nhiều hơn" thì làm phép cộng, "ít hơn" thì làm phép trừ...). • Sau đây là các bài toán nâng cao tôi hướng dẫn học sinh: Bài toán 1 : Sợi dây màu xanh dài 35 cm, sợi dây màu xanh ngắn hơn sợ dây màu đỏ 20 cm. Hỏi sợi dây màu đỏ dài bao nhiêu xăng - ti - mét ? (Sách tham khảo) + Để giải được bài này, tôi hướng dẫn học sinh phải hiểu rõ yêu cầu của bài toán. Đã biết sợi dây màu xanh dài 35 cm mà sợi dây màu xanh lại ngắn hơn sợi dây màu đỏ 20 cm. Lúc này học sinh sẽ hiểu là sợi dây màu đỏ dài hơn sợi dây màu xanh. Muốn tìm sợi dây màu đỏ dài bao nhiêu ta phải làm thế nào? (Tính cộng) + Học sinh phải tự phân tích đề toán và giải : Sợi dây màu đỏ dài là : 35 +20 = 55 ( cm) Đáp số : 55 cm Với việc mở rộng kiến thức này, học sinh sẽ linh hoạt hơn khi giải toán không nhất thiết cứ nhiều hơn là phải làm tính cộng. Bài toán 2: Bao thứ nhất đựng được 25 kg gạo, như vậy bao thứ nhất đựng ít hơn bao thứ hai 8 kg gạo. (Sách tham khảo) a) Tính số gạo của bao thứ hai. b) Cả hai bao đựng bao nhiêu ki -lô- gam gạo? • Giáo viên hướng dẫn học sinh giải từng phần của bài toán. a. Tính số gạo của bao thứ hai. Bài toán đã biết yếu tố gì ? (Số gạo của bao thứ nhất và biết bao thứ nhất đựng ít hơn bao thứ hai 8 kg). Giáo viên giảng cho học sinh hiểu bao thứ nhất đựng ít hơn bao thứ hai 8 kg nghĩa là bao thứ hai đựng nhiều hơn bao thứ nhất 8 kg.Vậy tìm số gạo của bao thứ hai ta phải làm như thế nào? - Học sinh nêu được cách làm như sau Bao thứ hai đựng số gạo là : 25 + 8 = 33( kg) Đáp số: 33 kg * Đối với học sinh khá, giỏi sẽ làm nhanh hơn, vì vậy tôi đã mở rộng bài tập này cho học sinh khá giỏi. Tuy nhiên cũng có thể có những học sinh trung bình giải quyết được, tôi rất khuyến khích. Như vậy, trong cùng một khoảng thời gian dù học sinh trung bình giải được phần này, vẫn còn một phần bài tập tiếp theo để học sinh khá, giỏi giải tiếp. Đối với học sinh giỏi tôi có thể nêu thêm: b. Cả hai bao đựng bao nhiêu ki -lô- gam gạo? - Giáo viên hỏi học sinh: Muốn tìm cả hai bao nặng bao nhiêu ta làm thế nào? - Học sinh nêu làm tính cộng lấy số gạo của bao thứ nhất cộng với số gạo của bao thứ hai. - Học sinh nêu được cách làm như sau: Cả hai bao đựng số gạo là : a. Con lợn thứ hai nặng số ki-lô-gam là: 118 - 7 = 111(kg) b. Cả hai con lợn nặng số ki-lô-gam là: 118+ 111 = 229 (kg) Đáp số: a) 111 kg ' b) 229 kg - GV lưu ý học sinh cách viết đơn vị tính chỉ viết dấu ngoặc đơn ở phép tính Còn ở đáp số không phải viết dấu ngoặc đơn... 4.5. Hướng dẫn học sinh tìm lời giải khác. - Giáo viên tìm những câu hỏi dễ hiểu, hướng dẫn gợi mở, giúp học sinh tìm ra những câu trả lời khác cho lời giải của bài toán để phát huy trí lực học sinh tạo điều kiện cho tư duy toán phát triển. Ví du: Một cửa hàng điện máy, buổi sáng bán được 11 máy tính, buổi chiều bán được ít hơn buổi sáng 3 máy tính. Hỏi buổi chiều cửa hàng bán được bao nhiêu máy tính? (Bài 4 - Trang 126 - Sách Toán 2 - Kết nối tri thức với cuộc sống) Giáo viên phải yêu cầu học sinh đọc kỹ đầu bài toán. Tóm tắt đầu bài bằng lời hoặc cách vẽ sơ đồ để tìm ra cách giải đúng và nhiều cách khác. Tóm tắt Buổi sáng : 11 máy tính Buổi chiều ít ít hơn : 3 máy tính Buổi chiều : ... máy tính? Hoặc Buổi sáng Buổi chiều Bài giải Bài giải Buổi chiều của hàng bán được số máy tính là: 11 - 3= 8 ( máy tính ) Đáp số: 8 máy tính - GV hỏi thêm ngoài câu trả lời trên con còn có câu trả lời nào khác không? Để khắc sâu liến thức cho học sinh. Có em sẽ giải như sau : Số máy tính buổi chiều cửa hàng bán được là: 11 - 3 = 8 ( máy tính ) Đáp số: 8 máy tính - Giáo viên có thể hỏi học sinh: Con thấy hai câu trả lời này có gì khác nhau không? ( Không khác nhau vì hai câu trả lời này cùng trả lời số máy tính của buổi chiều) Các em phải chú ý tên đơn vị của mỗi phép tính. Từ đó học sinh tìm được cách giải toán triệt để bằng nhiều cách đặt lời giải khác nhau. Học sinh nắm chắc đề toán, hiểu kỹ đề, để tìm cách giải khác có lời văn chính xác, phát triển tư duy toàn diện. 4.6. Rèn luyện kỹ năng tính toán giúp học sinh giải toán chính xác tránh nhầm lẫn khi tính toán. - Có những em nắm được cách giải đúng nhưng khi tính toán lại sai dẫn đến kết quả bài toán sai. Vậy tôi phải nhắc nhở học sinh khi làm bài phải tính toán chính xác, trình bày khoa học rõ ràng.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_giai_toan_co_loi.docx
- Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy giải Toán có lời văn cho học sinh Lớp 2 Trường Tiểu học P.pdf