Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm khai thác sử dụng thiết bị đồ dùng dạy học Lớp 2

doc 20 trang sangkienhay 06/12/2023 2820
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm khai thác sử dụng thiết bị đồ dùng dạy học Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm khai thác sử dụng thiết bị đồ dùng dạy học Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm khai thác sử dụng thiết bị đồ dùng dạy học Lớp 2
 UBND HUYỆN KINH MễN
 TRƯỜNG TIỂU HỌC Lấ NINH
 SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
"MỘT SỐ KINH NGHIỆM KHAI THÁC SỬ DỤNG THIẾT BỊ ĐỒ 
 DÙNG DẠY HỌC LỚP 2” 
 HỌ VÀ TấN GIÁO VIấN: NGUYỄN THỊ LÀ
 NĂM HỌC: 2014 - 2015 Phần thứ nhất
 Đặt vấn đề
I. Cơ sở lý luận:
 Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã khẳng định: “Phát triển Giáo dục 
và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền 
tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Phấn đấu 
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện 
đại”.
 Để đạt được mục tiêu, thực hiện nghị quyết 40/2000/QH 10 của Quốc Hội 
về “Đổi mới giáo dục phổ thông”, từ năm học 2002 – 2003 đến nay, Bộ giáo dục 
và đào tạo đã triển khai và tổng kết thực hiện chương trình sách giáo khoa mới trên 
phạm vi cả nước.
 Đổi mới giáo dục Tiểu học, đây là bậc học hình thành cơ bản ban đầu cho 
sự phát triển toàn diện của một con người sau này, là bậc học đặt nền tảng vững 
chắc cho giáo dục phổ thông và hệ thống giáo dục quốc dân.
 Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục 
toàn diện, mà một trong những yếu tố để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện là 
phải lấy đổi mới phương pháp dạy học làm then chốt. Nhưng, để đổi mới phương 
pháp dạy học có hiệu quả thì thiết bị và đồ đùng dạy học trở thành một điều kiện 
không thể thiếu và có vai trò hết sức quan trọng. Bởi vì, thiết bị và đồ đùng dạy học 
là những công cụ lao động của giáo viên và học sinh. Thông qua những công cụ lao 
động này, giáo viên và học sinh biết sử dụng hợp lý, đúng quy trình, phù hợp với 
từng đơn vị kiến thức, nội dung bài học, môn họcthì thiết bị và đồ đùng dạy học 
sẽ là nguồn phương tiện cung cấp kiến thức cho học sinh. học và hoạt động theo hướng tích cực hóa, cá thể hóa người học trong hoạt động 
học tập, rèn luyện phát huy hết tài năng của mỗi giáo viên và tiềm năng của mỗi 
học sinh. 
 Thực tế ở các nhà trường và bản thân tôi nhận thấy: Trong một tiết học, 
các em học sinh được trực tiếp nhìn – nghe – nói và làm cùng thiết bị và đồ đùng 
dạy học tôi thấy khả năng tiếp thu bài của các em có hiệu quả cao hơn. Như vậy, ở 
các tiết dạy, người giáo viên thực hiện nghiêm túc, có sự tìm tòi, sáng tạo thì sẽ 
đem lại kết quả cao. Song trong quá trình giảng dạy chúng tôi thấy nhiều đồ dùng 
dạy học còn thiếu, chưa thật phù hợp. Hơn nữa, khả năng khai thác, sử dụng thiết bị 
và đồ đùng dạy học nhất là đồ dùng dạy học tự làm trong giảng dậy chương trình 
sách giáo khoa mới đối với các giáo viên dạy lớp 2 còn nhiều hạn chế.
 Từ việc nhận thức, tìm hiểu về cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn, trong quá 
trình giảng dạy tôi đã trăn trở nghiên cứu tìm tòi và đúc rút được một số kinh 
nghiệm về việc “Khai thác sử dụng thiết bị - đồ dùng dạy học trong giảng dạy 
chương trình sách giáo khoa mới ở lớp 2 môn Toán và Tiếng Việt”
 Phần thứ hai
 Giải quyết vấn đề
A. Yêu cầu về việc sử dụng thiết bị và đồ đùng 
 dạy học ở lớp 2:
 Trên cơ sở danh mục thiết bị và đồ đùng dạy học tối thiểu của lớp 2 được 
Bộ Giáo dục và đào tạo phê duyệt theo quyết định số 12/2003 QĐ - Bộ Giáo dục và 
đào tạo ngày 24/3/2003 trường tôi đã được mua sắm bổ sung các thiết bị và đồ 
đùng dạy học theo quy định chung đó là các thiết bị do Công ty thiết bị giáo dục I 
– Bộ GD -ĐT cung cấp. tương đối cụ thể đối với từng loại bài. Còn đối với bộ môn Tiếng Việt thì thiết 
 bị và đồ đùng dạy học quá ít ỏi, giáo viên và học sinh phần lớn sử dụng kênh 
 hình và kênh chữ trong sách giáo khoa và sử dụng những đồ dùng dạy học tự 
 làm thủ công.
 II. Đánh giá về tình hình sử dụng đồ dùng dạy học môn Toán và Tiếng 
Việt ở lớp 2:
 Trong năm học qua, giáo viên lớp 2 chúng tôi đã thực hiện việc sử dụng thiết 
bị và đồ đùng dạy học vào giảng dạy Toán và Tiếng Việt theo đúng sự chỉ đạo của 
các cấp quản lý giáo dụcvà thực tế cho thấy các giờ học sinh động hơn, giáo viên và 
học sinh hoạt động nhịp nhàng, học sinh tích cực hơn trong việc tìm tòi lĩnh hội tri 
thức.
 Bên cạnh đó, không ít giáo viên còn lúng túng trong khi sử dụng và hướng dẫn 
học sinh sử dụng bộ thiết bị dạy Toán lớp 2 trong một số nội dung như: So sánh hai 
số có 3 chữ số; Hình thành sốHay khi dạy các giờ Tập đọc; Luyện từ và câu; Tập 
làm vănkhông có đồ dùng giảng dạy nên giáo viên có tâm lý ngại tìm tòi làm 
thêm đồ dùng dạy học phục vụ bài dạy.
 B. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng thiết bị và đồ đùng dạy 
học ở lớp 2.
 I. Nâng cao nhận thức, phát huy năng lực của bản thân và đồng nghiệp.
 Tôi nhận thức rõ vai trò của người giáo viên Tiểu học là lực lượng giáo dục 
chính, là người tổ chức quá trình hoạt động của trẻ bằng phương thức nhà trường. 
Chính vì vậy mà tôi hiểu: Nâng cao chất lượng giáo viên là trọng tâm, đổi mới 
phương pháp dạy học là then chốt. Sau khi học sinh thao tác trên bộ que tính, giáo viên hướng dẫn các em đặt tính 
và nêu miệng cách tính:
 47 7 cộng 5 bằng 12 viết 2 nhớ 1
 25 4 cộng 2 bằng 6, thêm 1 bằng 7, viết 7
 72
b – Dạy về phép trừ có nhớ trong phạm vi 100:
Bài 45: Số tròn chục trừ đi một số
Thao tác sử dụng đồ dùng dạy học của giáo viên khi giới thiệu cách thực hiện phép 
trừ 40 – 18 và tổ chức cho học sinh thực hành thao tác với que tính như sau: - Lấy 
4 thẻ bó 1 chục đặt trên bảng nỉ (HS đặt trước mặt, trên mặt bàn)
- Từ 4 thẻ bó 1 chục, lấy một thẻ bó 1 chục, còn lạ 3 thẻ bó 1 chục, thay bó que tính 
vừa lấy bằng 10 que tính rời.
- Bớt đi 8 que tính, còn lại 2 que tính.
- Từ 3 thẻ bó 1 chục que tính còn lại, lấy tiếp một thẻ bó chục nữa, còn lại 2 thẻ bó 
1 chục. Như vậy, từ 4 thẻ bó 1 chục que tính lấy 1 chục que tính rồi lấy tiếp 1 chục 
que tính nữa. Kết quả: còn lại hai thẻ bó 1 chục que tính và 2 que tính nên còn lại là 
22 que tính.
Học sinh thao tác với que tính sau đó đặt tính và tính:
 40 0 không trừ được 8 lấy 10 trừ 8 bằng 2, viết 2 nhớ 1 
 18 1 thêm 1 bằng 2, 4 trừ 2 bằng 2, viết 2.
 22
 Như vậy, khác với sách giáo khoa lớp 2 của chương trình cũ, phần bài học 
mới (trong các tiết dạy học bài mới) thường không nêu các kiến thức có sẵn mà sơ giản về Tiếng Việt. Bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt và hình thành thói quen giữ 
gìn sự trong sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt”.
 Để đạt được mục tiêu trên giáo viên cần nắm vững các quan điểm: dạy giao 
tiếp, dạy học tích cực, tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh để thực hiện tốt 
yêu cầu dạy kĩ năng sử dụng Tiếng Việt (đọc , viết , nghe, nói) để nội dung học tập 
của học sinh thêm phong phú, tự nhiên và hấp dẫn. Phương pháp đặc trưng của môn 
học đó là: Phương pháp thực hành giao tiếp, phương pháp đóng vai, phương pháp 
rèn luyện theo mẫu, phân tích ngôn ngữ và sử dụng phương tiện trực quan.
 Đồ dùng dạy học đối với bộ môn Tiếng Việt lớp 2 hiện nay mới chỉ có:
 1. Mẫu chữ viết trong trường Tiểu học – TTBĐVTA – GC NXB giáo dục 
 2002.
 2. Bộ chữ dạy Tập viết trong trường Tiểu học TTBĐVTA – GDNXB.
 Hai loại đồ dùng trên dùng cho phân môn Tập viết, chính tả còn các phân 
môn như Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu, Tập làm văn, giáo viên và học sinh 
sử dụng kênh hình và kênh chữ trong sách giáo khoa.
 Chẳng hạn: 
 *Phân môn Tập viết (phần bài mới)
 Bài 17 : Chữ hoa S
 Sau khi giới thiệu bài, giáo viên gắn chữ mẫu S cỡ vừa vào bảng nỉ hoặc 
dùng nam châm gắn trên bảng từ.
 Hướng dẫn học sinh quan sát và nhận xét chữ S trên bảng bằng hệ thống câu 
hỏi . Giáo viên hướng dẫn học sinh làm bài tập qua những hình thức tổ chức dạy 
học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo học tập của học sinh 
theo các bước làm mẫu - nhận xét - thực hành luyện tập.
 Như vậy, với những thiết bị và đồ dùng dạy học sẵn có, tôi đã nghiên cứu, 
tìm tòi, khai thác và sử dụng sao cho có hiệu quả nhất ở từng bộ môn, ở từng bài 
học, từng thiết bị.
 3. Phát hiện những điểm còn thiếu tính ưu việt của bộ đồ dùng hiện có 
và cách khắc phục nâng cao hiệu quả sử dụng trong giờ dạy. Nghiên cứu tự 
làm đồ dùng dạy học môn Toán và môn Tiếng Việt.
 * Đối Với bộ môn Toán: 
 Bộ thiết bị dạy học biểu diễn môn Toán lớp 2 khá phong phú. Song chỉ sử 
dụng được khi tìm hiểu khám phát hiện kiến thức ở phần bài mới và một số bài 
thực hành. Vì vậy, người giáo viên khi dạy cần tự làm thêm các đồ dùng dạy học 
Toán phục vụ cho việc thực hành và luyện tập, chơi trò chơi tạo không khí vui tươi, 
tự nhiên, hấp dẫn trong giờ học, chẳng hạn:
 Bảng nhân chia, bộ quay sốViệc gắn đồ dùng dạy học (que tính, các tấm 
nhựa in các chấm tròn, .) trên bảng nỉ có thể thay bằng gắn nam châm sau mỗi 
tấm nhựa, que tính,.. rất thuận tiện, khoa học và có tính sư phạm.
 * Đối với bộ môn Tiếng Việt:
 Thiết bị và đồ dùng dạy học hiện có là quá ít, bất cập với yêu cầu đổi mới 
hiện nay. Để tiết kiệm thời gian chuẩn bị đồ dùng dạy học cho giáoviên trong một 
tiết lên lớp, người giáo viên cần nghiên cứu tự làm thêm các đồ dùng dạy học sao 
cho có hiệu quả ở từng phân môn, từng bài học. Xuất phát từ nhận thức trên, tôi dã suy nghĩ để cải tiến, làm mới đồ dùng 
dạy học mang tên “Đĩa ghi hình giảng dạy bộ môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình 
sách giáo khoa mới phân môn Tập đọc + Kể chuyện + Tập làm văn”.
 Đây là một loại băng hình sách giáo khoa giúp học sinh quan sát ở nhiều góc 
độ sinh động hơn. bộ đĩa ghi hình đã được in sao thành công theo sách giáo khoa 
bằng các phương tiện hiện đại kết hợp với sử dụng côngnghệ khoa học tiên tiến, 
bảo đảm được các yêu cầu:
 + Tính khoa học 
 + Tính Sư phạm 
 + Tính thẩm mĩ
 + Tính thừa kế
 + Tính hiệu quả.
 Đĩa ghi hình đã phần nào khắc phục được những hạn chế thường gặp trong 
các tiết dạy phân môn Tập đọc + Kể chuyện + Tập làm văn. Chơi trò chơi theo 
sách “Trò chơi Tiếng Việt 2” của tác giả Trần Mạnh Hưởng như: nhìn tranh kể 
đoạn, bắt lỗi kể sai, nối dây kể chuyện giáo viên không còn lúng túng với kênh 
hình khổ nhỏ in trong sách giáo khoa hoặc phóng to hay thuê thợ vẽ thủ công 
(không đảm bảo độ chuẩn của kênh hình) để sử dụng trong tiết dạy. Việc in tranh 
trên đĩa hình đã góp phần kích thích sự hứng thú học tập của học sinh tạo được sự 
cảm thụ sâu sắc trong nhận thức của các em ở từng nội dung bài học. Giảm số lần 
thao tác của giáo viên khi trình bày các đơn vị kiến thức theo mục tiêu của tiết học. 
Đồ dùng dạy học đảm bảo được độ bền đẹp theo hướng hiện đại hóa đổi mới thiết 
bị và đồ dùng dạy học hiện nay. Nâng hiệu quả giờ dạy và đây cũng là một trong Nhìn vào bảng thống kê ta thấy việc sử dụng đĩa ghi hình vào giảng dạy phân 
môn Kể chuyện ở lớp 2C có chất lượng và hiệu quả cao hơn hẳn lớp 2A, học sinh 
hào hứng tích cực trong giờ học. Qua trao đổi, trò chuyện với các em thì hầu hết 
học sinh đều thích được học tập khi sử dụng màn hình, trình chiếu. “Đĩa ghi hình 
giảng dạy bộ môn Tiếng Việt lớp 2 chương trình sách giáo khoa mới phân môn 
Tập đọc + Kể chuyện + Tập làm văn”.
 Qua việc nghiên cứu, tìm tòi khai thác sử dụng thiết bị và đồ dùng dạy học tự 
làm tôi thấy bản thân mình được nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề vững 
vàng nên nhiều, tự tin trong mỗi tiết dạy, hiểu rõ hơn ý đồ trong sách giáo khoa.
 Các đồ dùng dạy học tự làm đã bổ sung vào bộ thiết bị, đồ dùng dạy học của 
lớp 2 ngày thêm phong phú hơn.
 Qua đó, góp phần tích cực vào phong trào sử dụng và cải tiến tự làm đồ dùng 
dạy học do nhà trường và cấp trên phát động.
 Phần thứ ba
 Kết thúc vấn đề
 Trong quá trình giảng dạy vừa qua, bằng việc thực hiện sử dụng thiết bị và 
đồ dùng dạy học đặc biệt là đồ dùng dạy học tự làm trong giảng dạy chương trình 
sách giáo khoa mới ở lớp 2 tôi thấy khả năng nắm bắt kiến thức và vận dụng kiến 
thức của học sinh tiến bộ rõ rệt. Các em say mê với nhiệm vụ học tập, thích được 
đến trường, đến lớp. Trong giờ học tích cực, sôi nổi. Qua việc thực hiện sử dụng 
các đồ dùng, thiết bị dạy học đã nêu ở trên, tôi đã có được một số bài học kinh 
nghiệm sau: 
 I. Bài học kinh nghiệm:

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_khai_thac_su_dung_t.doc