Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy tốt phân môn Tập làm văn Lớp 2

doc 21 trang sangkienhay 26/01/2024 710
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy tốt phân môn Tập làm văn Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy tốt phân môn Tập làm văn Lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Một số kinh nghiệm dạy tốt phân môn Tập làm văn Lớp 2
 A. PHẦN THỨ NHẤT
 ĐẶT VẤN ĐỀ
 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
 Chương trình Tiểu học mới chính thức được Bộ giáo dục và Đào tạo lưu 
hành trên cả nước vào năm học 2001-2003. Cùng với các môn học khác chương 
trình môn Tiếng Việt được biên soạn nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trên cơ 
sở phát huy những kinh nghiệm đó đã có, đồng thời tiếp nhận những thành tựu 
hiện đại của việc dạy tiếng Việt nói chung và tiếng mẹ đẻ, tiếng phổ thông nói 
riêng cho từng quốc gia, từng khu vực và trên toàn thế giới.
 Điều 23 Luật giáo dục đã quy định mục tiêu giáo dục ở Tiểu học: "Giáo dục 
Tiểu học giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn 
và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản góp phần 
hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bước đầu xây dựng 
nhân cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp tục học lên Trung 
học cơ sở".
 Chính vì thế Bộ Giáo dục và Đào tạo đã quyết định chính thức đổi mới 
chương trình giáo dục từ lớp 1 đến lớp 5 quả là vấn đề rất quan trọng vì các kiến 
thức được tích hợp, tinh giản chú trọng nhiều đến khả năng giao tiếp của học sinh. 
Chương trình Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 gồm các bài học thuộc 6 phân môn: Tập 
đọc, Kể chuyện, Chính tả, Luyện từ và câu, Tập viết, Tập làm văn. Trong các phân 
môn nói trên, Tập làm văn là phân môn có nhiều đổi mới về nội dung và phương 
pháp dạy học. Khi thực hiện chương trình mới, tôi thấy tâm đắc nhất là phân môn 
"Tập làm văn" mà tôi đang trực tiếp giảng dạy. Vì phân môn Tập làm văn có vị trí 
đặc biệt quan trọng trong việc hoàn thiện và nâng cao các kỹ năng sử dụng Tiếng 
Việt, đặc biệt là kỹ năng sản sinh văn học (văn bản nói và văn bản viết) cho học 
sinh Tiểu học. Như vậy, nói rằng phân môn Tập làm văn góp phần to lớn trong 
việc hiện đại hoá mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt ở 
Tiểu học là hình thành, phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt để 
 1 lời động viên, an ủi là rất xa lạ đối với trẻ. Khi khách đến nhà, học sinh chưa biết 
có lời chào như thế nào, khi bố mẹ bảo "Con chào bác đi!" con trẻ chỉ đáp lại với 
lời chào chưa gãy gọn, ngượng ngùng. Lời cảm ơn, xin lỗi đối với trẻ là rất viễn 
vông. Nhưng đối với chương trình mới tôi rất hài lòng và hứng thú, học sinh nắm 
được nghi thức sử dụng chúng trong mọi tình huống giao tiếp ở gia đình, trong 
trường học và nơi công cộng. Qua đó bồi dưỡng và hình thành nhân cách con 
người Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
 Chính vì thế trong hệ thống giáo dục quốc dân Tiểu học là bậc học có ý 
nghĩa đặc biệt quan trọng. Ngày nay với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, bậc 
Tiểu học đã coi trọng và đầu tư rất nhiều cả về cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học, 
con người, trang thiết bị và sách giáo khoa, tài liệu giảng dạy. Bậc Tiểu học được 
coi là bậc nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Chất lượng này phụ thuộc rất 
nhiều vào kết quả đào tạo ở Tiểu học. Người giáo viên Tiểu học phải chuẩn bị cho 
học sinh tiếp tục học lên, đồng thời có trách nhiệm xây dựng một nền móng dân trí 
tối thiểu cho cả dân tộc thực hiện tốt Luật giáo dục phổ cập Tiểu học và các mục 
tiêu chương trình đề ra.
 Phân môn Tập làm văn có tính chất thực hành, toàn diện, tổng hợp và sáng 
tạo, sử dụng toàn bộ các kỹ năng được hình thành và phát triển do nhiều phân môn 
khác của môn Tiếng Việt đảm nhiệm (kỹ năng đọc, nghe nói, viết chữ, viết chính 
tả, dùng từ đặt câu..). Tập làm văn còn đòi hỏi học sinh huy động với kiến thức 
nhiều mặt (Từ hiểu biết về cuộc sống đến tri thức về văn học, khoa học thường 
thức...) có liên quan đến đề bài.
 Bài Tập làm văn là sản phẩm tổng hợp của vốn sống, vốn văn học, năng lực 
tư duy, năng lực giao tiếp, sự thành thạo trong việc sử dụng ngôn ngữ, sự sáng tạo 
của cá nhân học sinh. Qua bài Tập làm văn (kết quả học tập phân môn Tập làm 
văn) ta sẽ thấy được trình độ sử dụng Tiếng Việt, những tri thức và hiểu biết về 
cuộc sống của học sinh.
 Là môn học công cụ, phân môn Tập làm văn lớp 2 giúp cho học sinh nắm 
vững đơn vị tri thức cơ bản của khoa học Việt ngữ. Trên cơ sở hình thành kỹ năng: 
nghe, nói, đọc, viết đạt đến trình độ đúng, tạo điều kiện học sinh nắm được tri thức 
 3 B. PHẦN THỨ HAI
 GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CẦN LƯU Ý KHI DẠY PHÂN MÔN TẬP LÀM 
 VĂN
 1.Về phía học sinh:
 * Học sinh thường lười đọc sách báo hoặc tìm tòi sưu tầm những tài liệu 
 phục vụ cho kiến thức có liên quan đến môn học dẫn đến nghèo vốn từ, nghèo 
 vốn sống để có thể đưa bài văn vào viết. 
 * Thiếu sự quan tâm, hỗ trợ động viên của phụ huynh.
 * Học sinh chỉ quan tâm đến những sở thích không phục vụ cho môn học 
 như: đọc sách báo, truyện tranh nhảm nhí, chơi điện tử, xem phim ảnh không phù 
 hợp với lứa tuổi nên vốn văn học rất hạn chế.
 2/ Về phía giáo viên: 
 • Giáo viên còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy Tập Làm Văn: Lập 
dàn bài rập khuôn dẫn đến bài làm của học sinh giống nhau về ý tưởng, nội dung.
 • Chưa rèn cho học sinh có thói quen đọc các bài văn mẫu, văn hay từ đó rút 
ra ý hay, tai hại thay một số giáo viên cho học sinh thuộc những bài văn mẫu điều 
đó đã làm mất đi sự sáng tạo và óc tưởng tượng phong phú của học sinh.
 • Giáo viên chưa linh động sáng tạo khi tổ chức các giờ dạy trên lớp, hình 
thức tổ chức dạy học đơn điệu: giáo viên hỏi - học sinh trả lời, chỉ những em khá 
giỏi mới có thể tham gia trả lời còn những học sinh trung bình hoặc yếu thì cảm 
thấy lo sợ nếu bị gọi đến tên! Từ đó, học sinh cảm thấy nhàm chán, mất hứng thú 
học tập. 
 • Chưa xử lí kịp thời, chính xác các phát sinh dẫn đến tình trạng giáo viên 
đánh giá chưa đúng ý kiến của học sinh.
 Trên đây là những tồn tại mà tôi thường thấy ở nhiều giáo viên khi dạy Tập 
làm văn. Thế thì làm thế nào để khắc phục hiện trạng trên. Bản thân tôi sau nhiều 
lần thực nghiệm tại lớp mình và nhân rộng ở một số lớp khác đã thấy rất khả thi.
 5 - Phải hết sức nhạy bén và ứng xử kịp thời các tình huống phát sinh khi 
giảng dạy bằng cách chú ý lắng nghe ý kiến của học sinh khi các em phát biểu để 
tìm ra ưu khuyết điểm chính của các em, sau đó nhận xét sửa chữa, góp ý đánh 
giá.
 - Giáo viên cũng cần rèn cho học sinh kĩ năng nhận xét bài của bạn để từ đó 
nhận biết được những chỗ hay hoặc chưa hay trong làm bài của mình.. Điều này 
vừa động viên được những em làm bài hay, vừa khơi dậy cho học sinh những ý 
tưởng, sáng tạo mới. Học sinh cảm thấy có thêm nguồn động lực để thi đua học 
tập, để bài của mình được cô và các bạn đọc trước lớp. Bên cạnh đó những hạn chế 
trong bài làm của học sinh, giáo viên cũng cần tế nhị khi nhận xét. Tuyệt đối không 
dùng những câu đại loại: ý nghèo nàn quá, bài chưa đủ ý, bài yếu hoặc em không 
có chuẩn bị bài sao... Điều đó sẽ làm cho em như bị dội gáo nước lạnh vào mặt. 
Người giáo viên cần thận trọng, trước tiên cần tìm cho bằng được những ưu điểm 
trong bài làm của học sinh dù chỉ nhỏ nhoi để tuyên dương trước lớp rồi từ từ cho 
các em chỉnh sửa, bổ sung cho câu văn hay hơn, hoàn chỉnh hơn.
  Người giáo viên cần thay đổi nhiều hình thức học tập để tạo cơ hội cho 
nhiều học sinh cùng được tham gia trình bày ý kiến của mình, như: Tổ chức học 
chung toàn lớp; Tổ chức học theo nhóm (tổ chức lớp thành viên nhiều nhóm, các 
nhóm cùng đóng vai, trao đổi bàn bạc để thực hiện nội dung bài học); Tổ chức để 
từng cá nhân làm việc độc lập nhằm thực hiện nhiệm vụ học tập.
 * Ví dụ: Ông em (hoặc bà em) bị mệt. Em hãy nói với ông (hoặc bà) 2-3 
câu để tỏ rõ sự quan tâm của mình.
 (Bài tập 1 tiết Tập làm văn - tuần 11) SGK Tiếng Việt lớp 2 trang 94.
 Hoạt động 1: Hướng dẫn học sinh nắm yêu cầu của bài tập, định hướng cho 
học sinh giao tiếp. Giáo viên dùng câu hỏi: Bài tập yêu cầu làm gì? nói gì? nói với 
ai, nói với hình ảnh nào? Nói để làm gì? Thái độ, tình cảm của các nhân vật khi nói 
với nhau như thế nào?
 Hoạt động 2: Hướng dẫn mẫu: Giáo viên hướng dẫn, tổ chức cho một học 
sinh nói thử.
 Hoạt động 3: Hướng dẫn, tổ chức cho học sinh nói.
 7 lĩnh, cá nhân của học sinh. Do đó, dạy Tập làm văn phải tích cực hoá được 
hoạt động học tập của học sinh, phải tạo điều kiện để học sinh chủ động, tự do 
thể hiện cái "tôi" của mình một cách rõ ràng, bộc bạch cái riêng của mình một 
cách trọn vẹn.
 2. Đối với học sinh:
 - Hết sức chú ý nghe giảng, có sự chuẩn bị bài trước khi đến lớp. 
 - Cụ thể hoá những ý nghĩ chung của bạn thành ý riêng của mình bằng cách 
tự lập một hệ thống dàn bài riêng của mình phù hợp với yêu cầu của chủ đề.
 - Mạnh dạn, tự tin phát biểu ý kiến để các bạn xây dựng cho mình. 
 - Tập cho mình có thói quen đọc sách báo hàng ngày để cập nhật thông tin 
bổ sung cho bài làm của mình thêm sâu sắc hơn. Tuyệt đối tránh máy móc rập 
khuôn theo bài mẫu.
 9 -Khi ai đó gặp chuyện buồn, chúng ta phải làm gì? - Nói lời chia buồn hay an ủi.
-Vậy khi người khác hạnh phúc, chúng ta sẽ nói 
gì? Bài học hôm nay sẽ giúp các em biết điều đó.
b. Kết nối: 
 Bài 1 
-Treo bức tranh và hỏi bức tranh vẽ cảnh gì?
-Gọi 1 HS đọc yêu cầu. - Bé trai ôm hoa tặng chị.
 - Bạn Nam chúc mừng chị 
 Liên được giải nhì trong kì thi 
 học sinh giỏi của tỉnh. Hãy 
-Chị Liên có niềm vui gì? nhắc lại lời của Nam.
 - Đạt giải nhì trong kì thi học 
-Khi chị Liên vui , Nam cũng cảm thấy như thế sinh giỏi của tỉnh.
nào? - Nam cũng thấy rất là vui.
-Nam chúc mừng chị Liên như thế nào?
 - Tặng hoa và nói: Em chúc 
 mừng chị. Chúc chị sang năm 
-Nếu là em trong trường hợp của Nam, em có được giải nhất.
cảm nghĩ như thế nào? - Em sẽ thấy rất là vui, em 
 cũng sẽ chúc mừng chị của 
Kết luận: Chị em trong gia đình phải biết mình như bạn Nam.
thương yêu, cảm thông, chia sẻ với nhau những 
buồn vui trong cuộc sống.
 Bài 2: 
 - Gọi HS đọc yêu cầu bài
-Nếu là em, em sẽ nói gì với chị Liên để chúc - 3 đến 5 HS nhắc lại.
mừng chị. - HS nói lời của mình.
 - Em xin chúc mừng chị./ 
 Chúc chị học giỏi hơn nữa./ 
 11 thương anh trai của mình.
 - Chấm điểm 3 – 5 vở của HS.
-Nhận xét.
c.Thực hành Tổ chức cho HS thực hành 
- Yêu cầu HS nói lời chia vui trong một số tình theo nhóm đôi.
huống sau: - Từng nhóm HS thể hiện 
- Em sẽ nói gì khi bbạn đạt thành tích cao trong sắm vai theo tình huống trên.
học tập? - Nhận xét.
- Khi bạn em được cô giáo khen?
-Nhận xét.
Hoạt động nối tiếp: 
- Nhận xét tiết học.
- Chuẩn bị bài sau.
 13 C. PHẦN THỨ BA
 I . BÀI HỌC KINH NGHIỆM.
 Muốn đạt kết quả cao trong quá trình giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 
 2 nói riêng và phân môn Tập làm văn các lớp khác nói chung không phải là khó 
 song cũng không đơn giản một chút nào. Trong quá trình đó, tôi đã rút ra được 
 một vài kinh nghiệm để dạy tốt phân môn Tập làm văn như sau:
 - Giáo viên cần đặc biệt chú ý sử dụng phối hợp tốt phương pháp và hình 
thức tổ chức dạy học phù hợp với trình độ học sinh, phù hợp với yêu cầu từng loại 
bài sao cho tiết học được tổ chức thành chuỗi hoạt động sôi nổi, nhẹ nhàng, nhằm 
lôi cuốn học sinh tham gia thực hành luyện tập các kỹ năng.
 - Giáo viên luôn học hỏi các đồng chí đồng nghiệp, đọc thêm tài liệu để 
nâng cao chất lượng dạy và học theo phương pháp đổi mới.
 - Người giáo viên phải là người mẫu mực trong mọi giao tiếp, cử chỉ... là 
tiếng nói chuẩn mực để học sinh học tập.
 - Thường xuyên trao đổi phụ huynh để thông báo và cùng bàn bạc khắc 
phục những nhược điểm của học sinh.
 - Tập trung đầu tư nghiên cứu soạn giảng các tiết dạy, áp dụng những sáng 
kiến kinh ngiệm của đồng chí, đồng nghiệp vào bài dạy, sử dụng các tài liệu, đồ 
dùng dạy học phù hợp, sinh động nhằm kích thích học sinh học tập.
 - Tạo mối quan hệ giữa thầy và trò, quan tâm, yêu thương, gần gũi với các 
em, hiểu biết về tâm sinh lý trẻ, tận tình giúp đỡ, hướng dẫn các em nhằm tạo động 
lực giúp các em hoàn thành mục tiêu của bài học (nhất là học sinh yếu kém). 
 - Dạy học phân môn Tập làm văn nên lồng ghép, tích hợp với các môn học 
khác để mở rộng thế giới kiến thức cho học sinh và vừa có tính ôn tập vừa cung 
cấp thêm cho các em vốn kiến thức để hỗ trợ đắc lực cho phân môn Tập làm văn.
 II. Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
 Năm học 2011– 2012 là năm thứ mười áp dụng chương trình Tiểu học 2000. 
 * Đối với cấp trên:
 15

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_kinh_nghiem_day_tot_phan_mon_ta.doc