Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh lớp 2

docx 16 trang sangkienhay 19/10/2023 16594
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh lớp 2

Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn kỹ năng viết đoạn văn ngắn đạt hiệu quả cho học sinh lớp 2
 “BIỆN PHÁP RÈN KỸ NĂNG
 VIẾT ĐOẠN VĂN NGẮN ĐẠT HIỆU QUẢ CHO HỌC SINH LỚP 2”
 PHẦN MỞ ĐẦU
 1. Bối cảnh của giải pháp
 Ở bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt (TV) có ý nghĩa đặt biệt quan trọng đối với hoc 
sinh, giúp các em phát triển toàn diện hình thành những cơ sở thế giới khoa học.Trong đó 
Tập Làm Văn (TLV) là một trong những phân môn có tầm quan trong đặc biệt ở bậc tiểu 
học nhất là học sinh lớp 2 (vì ở lớp 1 các em chưa được học, lên lớp 2 học sinh mới bắt 
đầu được học, được làm quen). Phân môn TLV trong môn TV hội tụ đủ 4 kỹ năng cơ bản: 
nghe, nói, đọc, viết. Đối với HS lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của 
các em, đang ở bước đầu rèn nói và viết từ, câu, đoạn, vốn kiến thức và hiểu biết còn hạn 
hẹp.
 Đồng thời, bên cạnh đó còn có một số khó khăn khách quan như điều kiện, hoàn 
cảnh sống của học sinh ở địa bàn. Trường Tiểu học Quang Trung nằm trên địa bàn ấp 
Thọ Trung, phần đông là dân tộc thiểu số(các em thường xuyên nói tiếng mẹ đẻ), dân cư 
lao động nghèo, tập trung làm kinh tế mưu sinh, gia đình không có điều kiện để quan tâm 
đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ kém, việc tiếp thu kiến thức khá chậm, học sinh còn 
rụt rè, nghèo vốn từ ngữ...Điều này ảnh hưởng nhiều đến việc học tập nói chung, học 
phân môn TLV nói riêng. Hiện nay đáp ứng đổi mới phương pháp dạy học lấy học sinh 
làm trung tâm, mỗi giáo viên (GV) đã không ngừng nâng cao chất lượng dạy hoc phát 
huy được năng lực học tập của các em. Mục đích của việc dạy Văn phải là khuyến khích 
và huấn luyện con người khả năng cảm thụ, tự do bộc lộ suy nghĩ, biểu cảm, kỹ năng 
sống, biết yêu thương, có trách nhiệm và gắn kết với cộng đồng.”
 2. Lý do chọn giải pháp
 Hiện nay, trong công cuộc đổi mới, sự phát triển Công nghiệp hoá - hiện đại hoá 
đất nước cần phải có những con người năng động, sáng tạo, tự lực, tự cường. Nhu cầu 
này đòi hỏi phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung Chương trình bậc Tiểu học một cách 
phù hợp. Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là: “ giúp học sinh hình thành những cơ 
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm mỹ 
và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở quả giờ học TLV ở lớp 2 cho HS của tôi và để trao đổi, học hỏi kinh nghiệm với đồng 
nghiệp cũng như tham gia đóng góp sáng kiến của bản thân vào thực tiễn trong Ngành 
giáo dục (GD).
 PHẦN NỘI DUNG
 I. THỰC TRẠNG CỦA GIẢI PHÁP ĐÃ BIẾT, ĐÃ CÓ
 1. Trong thực tế dạy học theo PP truyền thống, GV là trung tâm, HS thụ động tiếp 
thu kiến thức, tôi đã áp dụng ở trường theo một số giải pháp.
 Giải pháp 1: Giáo viên giúp HS phân tích yêu cầu của đề bài.
 Giải pháp 2: Giáo viên rèn cho HS kỹ năng viết đoạn văn.
 Giải pháp 3: Nhận xét, chấm sửa bài.
 2. Ưu điểm
 Giải pháp 1: Với phương pháp này giáo viên đảm bảo thời gian cho tiết dạy
 Giải pháp 2: Ở giải pháp này giúp HS viết có bố cục.
 Giải pháp 3: Đây là giải pháp xuyên phải có trong các tiết học, và rất cần thiết đối 
với phân môn TLV, giúp HS biết bài làm của mình có những ưu điểm và hạn chế nào cần 
phải khắc phục, chỉnh sửa.
 Nhược điểm
 Giải pháp 1: Chưa phát huy hết tính tích cực, chủ động học tập của học sinh vì giáo 
viên chỉ hướng dẫn học sinh phân tích đề và chủ yếu sử dụng phương pháp đàm thoại. 
GV chưa cho HS thảo luận vấn đề thông qua nhóm để tập nói, để các thành viên đều phải 
làm việc, được chia sẽ, đánh giá lẫn nhau.
 S Giải pháp 2: Gv viên chưa hướng dẫn cách sử dụng từ ngữ, phân tích cấu tạo câu, 
dẫn đến HS viết các câu còn rời rạc chưa có sự liên kết chặt chẽ.
 Giải pháp 3: Trong thực tế không phải giáo viên nào cũng làm tốt khâu nhận xét, 
sửa bài. Vì vậy mà dẫn đến bài làm chưa đạt yêu cầu, việc diễn đạt ngôn ngữ còn hạn chế.
 II. NỘI DUNG SÁNG KIẾN
 1. Quy trình thực hiện giải pháp mới
 Qua kết quả cuối học kì 1 của năm học vừa qua tôi nhận thấy chất lượng biển, nhân đó, tôi có thể yêu cầu học sinh quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn tả 
cảnh biển.
 Phương pháp phân tích ngôn ngữ
 Học sinh lớp 2 chưa được học về lý thuyết, ngữ pháp, các khái niệm từ và 
câu được hình thành thông qua thực hành luyện tập. Chính vì vậy, việc tăng cường sử 
dụng phương pháp phân tích ngôn ngữ rất cần thiết trong giờ học Tập làm văn. Sử dụng 
phương pháp này để tôi có cơ sở giúp học sinh nhận ra cấu tạo câu, nhằm giúp các em 
viết câu đúng, đủ bộ phận, diễn đạt ý rõ ràng, dễ hiểu.
 Ví dụ
 Dựa vào các mẫu câu được học trong phân môn Luyện từ và câu: “ Ai - là 
gì?”, “ Ai - làm gì?”, “ Ai - như thế nào?”, tôi hướng dẫn HS nhận biết những vấn đề sau:
 - Câu văn của em viết ra đã đủ hai bộ phận chưa: Bộ phận trả lời cho câu 
hỏi Ai?( hoặc Cái gì?/ Con gì)?, bộ phận trả lời cho câu hỏi Là gì (hoặc Làm gì?/ Như thế 
nào ? ( Đó chính là đảm bảo về hình thức cấu tạo).
 - Người đọc, người nghe có hiểu nội dung chưa? (Đảm bảo về mặt
nghĩa)
 Trên cơ sở đó, tôi hướng dẫn học sinh viết dấu chấm câu phù hợp khi hết câu. Mỗi 
tiết học có kiến thức liên quan, tôi đều gợi mở cho HS tự khắc sâu kiến thức về các mẫu 
câu và nhắc HS áp dụng khi giao tiếp ở gia đình, trong trường học và nơi công cộng. Khi 
giao tiếp các em phải nói 1 câu rõ ràng cho người nghe hiểu được ý mình muốn nói.
 b) Phương pháp sử dụng từ ngữ trong câu
 Các em mới ở lớp 1 lên, có một số em nói chưa rõ, thậm chí còn nói chớt, 
nói ngọng, chưa biết cách dùng từ để thể hiện ý của mình nên việc sử dụng từ ngữ trong 
bài tập làm văn còn nhiều hạn chế. Hầu hết học sinh sử dụng từ ngữ chưa phù hợp, chưa 
chính xác. Vì vậy, giáo viên cần cung cấp, giúp các em lựa chọn, phân tích để sử dụng từ 
ngữ cho hợp lý. Bên cạnh đó, giáo viên cũng cần giới thiệu, cung cấp thêm các từ đồng 
nghĩa phù hợp với bài văn.
 A/A'Ví dụ:
 Khi viết đoạn văn kể về người thân thì HS sẽ có nhiều bài làm khác nhau, 
Giáo viên cần giúp học sinh chọn lựa từ ngữ cho phù hợp. Khi kể về bố là thầy giáo thì 
từ ngữ sử dụng phải khác với bài viết bố là bộ đội; viết về tình cảm của em đối với với 
cha mẹ, ông bà thì từ dùng phải khác với viết về tình cảm của mình đối với bạn bè; viết kể liệt kê, chưa đảm bảo cấu trúc một đoạn văn . Để giúp học sinh nắm được trình tự 
các bước khi viết một đoạn văn tôi đã hướng dẫn HS thực hiện như sau:
 Viết câu mở đầu: Giới thiệu đối tượng cần viết. ( Có thể diễn đạt bằng một câu )
 Phát triển đoạn văn : Kể về đối tượng: Có thể dựa theo gợi ý , mỗi gợi ý có thể 
 diễn đạt 2,3 câu tùy theo năng lực học sinh.
 Câu kết thúc: Có thể viết một câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ , mong 
 ước của em về đối tượng được nêu trong bài hoặc nêu ý nghĩa, ích lợi của đối tượng 
 đó đối với cuộc sống, với mọi người.
 Ví dụ
 Viết về một con vật:
 - Con vật em định kể là con vật gì?
 - Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào?
 - Hoạt động của nó có gì nổi bật?
 - Vì sao em thích con vật đó?
 Câu mở đầu: Giới thiệu chim cánh cụt
 Trong thế giới loài chim, em thích nhất là chim cánh cụt.
 Phát triển: Kể về chim cánh cụt
 Cánh cụt sống ở những nơi lạnh giá, đầy băng tuyết. Nó có đôi cánh giống như 
hai mái chèo. Dáng đi của nó lũn chũn, trông rất buồn cười. Là một loài chim rất dễ 
thương nhưng em chẳng thấy nó bay bao giờ. Thế nhưng nó lặn sâu dưới nước để bắt cá 
rất giỏi.
 Câu kết thúc: Tình cảm của em đối với loài chim này
 Em thích chim cánh cụt vì chúng là những con vật hiền lành, dễ thương.
 c. Chú trọng lồng ghép kiến thức giữa các phân môn Tiếng Việt
 Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ phong 
phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận dụng. Có em thì có rất 
ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người cung cấp. Mà cung cấp ở đâu? Tôi 
nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc 
đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ để đó. Trong quá trình giảng dạy tôi chú ý đến 
những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn, yêu cầu HS gạch chân hoặc viết ra 
giấy. Từ đó học sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ sau này vận làm cho đoạn văn đẹp hơn, nghệ thuật hơn.
 d) Các bước thực hiện viết đoạn văn
 Bước 1: Cá nhân thảo luận trong nhóm thông qua câu hỏi gợi ý (việc này phát 
huy được mọi thành viên đều làm việc, giúp đỡ được học sinh gặp khó khăn). GV gợi ý 
cho học sinh trả lời bằng nhiều ý kiến khác nhau.
 Bước 2: Tổ chức cho HS trả lời trước lớp. Cho HS nhận xét, đánh giá chính mình 
và của bạn kết hợp sửa chữa những câu trả lời chưa đúng.
 Hướng dẫn học sinh sắp xếp các câu trả lời đó theo một trật tự hợp lý để hoàn 
chỉnh bài làm miệng. Tiếp theo cho một số học sinh làm miệng cả bài.
 Bước 3: Hướng dẫn học sinh viết liền mạch các câu trả lời thành một đoạn văn.
 cung cấp và gợi ý để các em có thể chọn từ đồng nghĩa thay thế cho từ cũ, có thể 
hướng dẫn mẫu các câu văn có hình ảnh nhân hóa hoặc so sánh để bài văn sinh động hơn 
(khuyến khích học sinh hoàn thành Tốt vận dụng, không bắt buộc tất cả các đối tượng 
học sinh thực hiện vì đây là phần kiến thức chưa học, giáo viên hướng dẫn mẫu và cung 
cấp các thành ngữ so sánh, nhân hóa ( nhưng không dùng những thuật ngữ này với đối 
tượng học sinh lớp 2 ).
 Giải pháp 3: Thực hiện nghiêm túc việc nhận xét và chữa bài
 Bước 1: Thực hiện nhận xét và chữa bài. Đây là việc làm hết sức cần thiết, 
giúp học sinh nhận ra lỗi sai để điều chỉnh , sửa chữa, hoàn chỉnh bài văn ( tôi có theo 
dõi, kiểm tra, cho HS đọc lại bài đã được sữa, tránh tình trạng chỉ nghe mà không thực 
hành đối với HS Hoàn thành). Đối với những bài làm có ý hay, tôi giúp học sinh gọt giũa, 
trau chuốt thêm cho bài văn được hay hơn. Học sinh lớp 2 chưa được học và luyện tập 
nhiều về từ ngữ, ngữ pháp, chắc chắn trong bài viết của các em sẽ rất nhiều lỗi sai . Trong 
quá trình chấm bài, tôi phát hiện, giúp HS khắc phục, biết lựa chọn, thay thế các từ ngữ 
cho phù hợp. Tôi ghi lời nhận xét cụ thể về cách dùng từ,viết câu, hoặc có thể nhận xét 
trực tiếp cho các em hiểu, rút kinh nghiệm lần sau.
 Bước 2: Giới thiệu những bài văn hay của học sinh ở năm học trước nhằm 
kích thích tinh thần học tập của học sinh, hoặc những bài viết hay của học sinh trong lớp 
cho các em tham khảo, từ đó nhận thấy sự khác nhau về cách diễn đạt trong cùng một đề 
tài để các em hiểu rằng những bài làm thể hiện suy nghĩ độc lập của cá nhân luôn được 
khích lệ và khen ngợi, yêu thích. đoạn văn ngắn theo yêu cầu theo Chuẩn kiến thức - kĩ năng của khối lớp đang học. Bên 
cạnh những giải pháp trên thì bản thân tôi không ngừng cố gắng trau dồi chuyên môn 
nghiệp vụ, tìm tòi những phương pháp tối ưu để đem đến hiệu quả cho tiết dạy phù hợp 
với đặc điểm tâm sinh lý của các em.
 2. Ưu điểm của các giải pháp
 Qua quá trình áp dụng một số biện pháp rèn luyện kĩ năng viết đoạn văn ngắn hiệu 
quả cho HS lớp 2. Đây là một giải pháp mới với nhiều ưu điểm.
 Khai thác triệt để mục tiêu bài học. Tác động hiệu quả với các đối tượng học 
sinh trong lớp, kể cả hoc sinh khuyết tật. Các em hiểu rõ về chủ đề và có kỹ năng quan 
sát tốt. Hứng thú tham gia trình bày, trả lời câu hỏi. Phát huy được năng lực tự học, sáng 
tạo và gây hứng thú học tập cho học sinh. Tạo cơ hội HS trình bày ý kiến cá nhân, biết 
điều chỉnh và nhận xét sản phẩm của bạn. HS rèn luyện nhiều hơn về kĩ năng nghe, nói, 
giao tiếp, tinh thần hợp tác. Trình bày đoạn văn rõ ràng, cấu trúc các câu hợp lý, diễn đạt 
trôi chảy, mạch lạc. Giáo viên chủ động , khéo léo xử lý được các tình huống phát sinh 
trong giảng dạy. Phát huy được việc sử dụng ĐDDH hiệu quả, mang tính trực quan 
cao.Huy động sự cộng hưởng từ phía gia đình, nhà trường trong việc giáo dục, rèn luyện 
HS. Mang lại hiệu quả cao trong dạy học, góp phần hình thành Năng lực - Phẩm chất cho 
HS.
 Tuy nhiên trong quá trình vận dụng tôi cũng nhận thấy một số nhược điểm. Đó là 
về phía GV nếu không có sự chuẩn bị bài một cách chu đáo trước, không dặn dò HS kịp 
thời trong công tác chuẩn bị bài ở nhà, không chuẩn bị đồ dùng tranh ảnh phong phú sẽ 
dẫn đến tiết dạy có thể bị ít về thời gian hoặc nhiều thời gian hơn so với quy định. Về 
phía HS, còn số học sinh còn ỷ lại chưa tích cực tham gia vào các hoạt động. Một số học 
sinh vẫn còn viết chậm, tiếp thu còn hạn chế, kĩ năng đọc chậm dẫn đến viết chậm và 
trình bày bài lâu sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giờ học của lớp. Trong hoạt động nhóm 
nếu nhóm trưởng không quản lý nhóm tốt sẽ gây mất trật tự, chỉ 1 vài bạn làm việc. Những 
em không được phụ huynh (PH) quan tâm chuẩn bị bài trước ở nhà sẽ không đem lại sự 
phong phú trong tiết học.

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_ren_ky_nang_viet_doan_van_ng.docx