Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng dạy và học Luyện từ và câu ở Lớp 2
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng dạy và học Luyện từ và câu ở Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao chất lượng dạy và học Luyện từ và câu ở Lớp 2
Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu ở lớp 2 Phần I : Đặt vấn đề 1- Lý do chọn đề tài Môn Tiếng Việt là môn học góp phần quan trọng trong việc giúp các em học các môn học khác. Dạy Tiếng Việt ở tiểu học là dạy phát triển ngôn ngữ cho người bản ngữ vì bản thân các em đã biết tiếng mẹ đẻ. Chúng ta cần dạy cho các em biết cách sử dụng ngôn ngữ sao cho phù hợp trong môn Tiếng Việt ở tiểu học bao gồm nhiều phân môn như : tập đọc, chính tả, kể chuyện, tập làm văn, tập viết và luyện từ và câu. Mỗi phân môn đều có những vai trò quan trọng riêng. Nhưng phân môn luyện từ và câu là một phân môn mà tôi yêu thích nhất. Vì đây là phân môn đóng vai trò quan trọng đối với việc phát triển ngôn ngữ của học sinh nói chung và đối với học sinh lớp 2 nói riêng. Trong thực tế, phân môn luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng, là chìa khoá mở ra kho tàng văn hoá trên mọi lĩnh vực đời sống, xã hội của con người. Hơn nữa, phân môn luyện từ và câu giúp học sinh lĩnh hội Tiếng Việt, văn hoá, là công cụ giao tiếp tư duy và học tập. Đối với học sinh khi sử dụng Tiếng Việt thì việc luyện từ và câu có một vai trò quan trọng nó giúp học sinh có đủ điều kiện để sử dụng Tiếng Việt đạt hiệu quả cao trong học tập các môn văn hoá, trong việc viết văn bản. Xuất phát từ mục đích yêu cầu của môn Tiếng Việt trong trường tiểu học nhằm tạo cho học sinh năng lực sử dụng Tiếng Việt, văn hoá và hiện đại để suy nghĩ, giao tiếp và học tập. Thông qua việc học Tiếng Việt rèn cho học sinh năng lực tư duy, phương pháp suy nghĩ, giáo dục cho các em tư tưởng, tình cảm trong sáng. Có như vậy mới thực hiện được nhiệm vụ đào tạo học sinh thành những con người phát triển toàn diện. Xuất phát từ nhữg yêu cầu rèn luyện kĩ năng luyện từ, đặt câu cho học sinh tiểu học, rèn cho các em một số phẩm chất như : óc thẩm mĩ, tính kỷ luật, đồng thời bồi dưỡng cho các em lòng yêu quý Tiếng Việt biểu thị tình cảm tốt đẹp trong việc học và hiểu phân môn luyện từ và câu. Trong quá trình học tập và giảng dạy tôi đã nắm được những cơ sở lí luận của công tác giáo dục học sinh đặc biệt là chất lượng dạy và học phân môn luyện từ và câu của lớp 2. Tôi đã tìm hiểu những phần nào về nội dung và biện pháp thực tế trong quá trình giảng dạy. Đặc biệt là những biện pháp dạy phân môn luyện từ và câu cho học sinh lớp 2 nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy. Mặt khác, đối với giáo viên chất lượng giảng dạy phân môn luyện từ và câu là nhiệm vụ hàng đầu. Có dạy tốt thì kết quả học tập của học sinh mới được nâng cao. Giáo viên có dạy tốt hay không được đánh giá ở chính thành tích học tập của các em. Kết quả học tập của các em là thước đo quá trình phấn đấu rèn luyện của chính bản thân mỗi giáo viên. Cho nên khi giảng dạy, mỗi giáo viên tiểu học phải truyền đạt hết sức mình cho các em học tập. 2. Cơ sở thực tiễn Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu ở lớp 2 a. Đối tượng học sinh lớp 2A của trường tiểu học Dương Liễu A, huyện Hoài Đức – Tỉnh Hà Tây. b. Phạm vi nghiên cứu Ngay từ đầu năm học, tôi đã chú ý tìm hiểu về tình hình của lớp và thấy rằng trong môn Tiếng Việt đặc biệt ở phân môn luyện từ và câu chất lượng học của học sinh còn chưa cao. Chính vì thế mà tôi đã chọn đề tài : Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu lớp 2 . Trên thực tế học sinh còn có mặt hạn chế và thiếu sót nhất định so với yêu cầu chung đưa ra. Hiểu được tầm quan trọng của việc dùng từ, đặt câu và so sánh với thực trạng tình hình học tập của lớp tôi, tôi rất băn khoăn và lo lắng, tìm ra một biện pháp giải quyết kịp thời trước mắt và rèn luyện lâu dài để hướng dẫn các em những biện pháp dùng từ đặt câu có hiệu quả. c. Kế hoạch nghiên cứu * Khảo sát hứng thú học tập và giảng dạy phân môn luyện từ và câu của giáo viên và học sinh thông qua các bài học và trao đổi giữa giáo viên và học sinh. - Tìm đọc các tài liệu có liên quan tới việc phân biệt, từ, câu, xác định các bộ phận dùng từ đặt câu của học sinh tiểu học xung quanh phân môn luyện từ và câu. - Điều tra tình hình gia đình và nhà trường có liên quan tới chất lượng và học tập của phân môn luyện từ và câu của giáo viên và học sinh. * Khảo sát thực trạng việc dạy và học phân môn luyện từ và câu của giáo viên và học sinh để thu thập số liệu, phân tích đối chiếu và so sánh - Tìm ra những sai sót và dự đoán những nguyên nhân dẫn đến sai lầm đó. - Đề ra biện pháp khắc phục những sai lầm một cách chính xác và khoa học. - Đề xuất ý kiến với những cơ quan chức năng để có những biện pháp cải thiện việc dạy và học phân môn luyện từ và câu. Phát huy khả năng tư duy và tưởng tượng của học sinh tiểu học thông qua các bài tập của môn học này. Từ đó, đề xuất những biện pháp cụ thể, thiết thực để nâng cao chất lượng dạy và học phân môn luyện từ và câu, phát huy khả năng tư duy của học sinh. Phần II : Nội dung I. Cơ sở lí luận của việc dạy và học phân môn luyện từ và câu 1.Vị trí, vai trò của phân môn luyện từ và câu ở lớp 2 chương trình mới, môn từ ngữ - ngữ pháp được kết hợp thành một môn học mới đó là phân môn luyện từ và câu. Nó là một môn học giữ vị trí chủ đạo trong chương trình Tiếng Việt mới của lớp 2. Ngay từ đầu của hoạt động học tập ở trường, Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu ở lớp 2 Như vậy phân môn luyện từ và câu có tác dụng to lớn trong quá trình phát triển tư duy ngôn ngữ cho học sinh. Qua phân môn luyện từ và câu các em nắm được từ và mở rộng vốn từ, giải nghĩa của từ và vế câu. Các em nắm được các kiểu câu, các dấu câu (dấu chấm, dấu phẩy, dấu chấm hỏi, dấu chấm than), biết cách sử dụng từ và câu phù hợp với ngữ cảnh và lời nói. Ngoài ra, nội dung chương trình của phân môn luyện từ và câu ở tiểu học được xây dựng phù hợp với yêu cầu phát triển lời nói của học sinh, giúp các em mở rộng thêm kiến thức trong quá trình học tập, lao động và giao tiếp ngày một tốt hơn, tiến bộ hơn, đạt kết quả cao hơn. II. Thực trạng của việc dạy và học phân môn luyện từ và câu 1. Khảo sát chương trình sách giáo khoa Môn luyện từ và câu lớp 2 cả năm có 35 bài tương ứng với 35 tiết và dạy trong thời gian 1 tiết / 1 tuần : + Kì I gồm 18 bài trong đó có 2 bài ôn tập và 16 bài mới. + kì II gồm 17 bài trong đó có 2 bài ôn tập và 15 bài mới. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 được chia thành hai tập (tập một và tập hai) mỗi tập dùng trong một kì. ở sách Tiếng Việt lớp 2 được trình bày riêng theo từng phân môn : Tập đọc, kể chuyện, chính tả, tập viết, luyện từ và câu, tập làm văn. ở lớp 2 sự tương quan số tiết học giữa phân môn luyện từ và câu với các phân môn khác trong môn Tiếng Việt như sau: Sự phân bố các tiết trong môn Tiếng Việt Tập đọc Kể Chính tả Tập viết Luyện từ Tập làm chuyện và câu văn Học kì I 72 18 36 18 18 18 Học kì II 68 17 34 17 17 17 Như vậy, thời gian dành cho việc học luyện từ và câu so với các phân môn khác cũng là tương đối nhiều ( chỉ kém phân môn tập đọc và chính tả). Sang học kì II số tiết học một tuần của môn học này vẫn được giữ nguyên. 2. Khảo sát hứng thú dạy và học luyện từ và câu của giáo viên và học sinh. a. Hứng thú của giáo viên Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu ở lớp 2 Câu 1: Em có thích học phân môn luyện từ và câu không? - Rất thích : 9/35 em = 26% - Bình thường : 15/35 em = 42% - Không thích : 11/35 em = 32% Câu 2: Trong giờ luyện từ và câu em thường: - Chú ý nghe giảng : 25/35 em = 71% - Phát biểu ý kiến xây dựng bài : 16/35 em = 45% - Chỉ nghe không phát biểu ý kiến : 19/35 em = 55% - Không chú ý vào bài : 0 em = 0% Câu 3: Em có làm đầy đủ bài tập của phân môn luyện từ và câu không? - Có : 31/35 em = 88% - Không : 0 em = 0% - Còn thiếu : 4/35 em = 12% * Qua khảo sát tôi thấy: - Phần lớn học sinh không thích học phân môn này, số học sinh thích là rất ít và các em đều là những học sinh học khá môn học này cũng như các môn khác. - Mặc dù phân môn này không gây nhiều hứng thú đối với các em nhưng trong giờ học các em vẫn luôn chú ý nghe bài, hăng hái giơ tay phát biểu ý kiến xây dựng bài. - Phần lớn các em đều tự học và tự làm bài, làm đầy đủ các bài tập ở lớp. - Mặc dù chưa gây được hứng thú nhiều nhưng hầu hết học sinh đều có thái độ tích cực trong việc luyện từ và câu. 3. Khảo sát thực trạng khả năng nắm kiến thức luyện từ và câu của học sinh thông qua các bài tập. * Những căn cứ để đánh giá - Hình thức: viết đẹp, không sai lỗi chính tả, trình bày rõ ràng, không gạch xoá. - Nội dung : Thực hiện đúng yêu cầu của đề bài. - Làm đúng chính xác về kiến thức. Ngoài ra, còn ưu tiên, khuyến khích những học sinh có sự sáng tạo, viết được nhiều câu văn hay, cảm xúc chân thành. * Nội dung khảo sát: Bài tập 1: Điền vào ngoặc đơn ( ) dấu chấm hoặc dấu hỏi: Nam nhờ chị viết thư thăm ông bà vì em mới vào lớp 1, chưa biết viết ( ) Viết xong thư, chị hỏi: - Em có muốn nói thêm gì nữa không ( ) Cậu bé đáp: Dạ có ( ) Chị viết hộ em vào cuối thư: “Xin lỗi ông bà vì chữ cháu xấu và nhiều lỗi chính tả”. + Đáp án bài tập 1: Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu ở lớp 2 2D 35 22 8 5 0 (71%) (24%) (15%) (0%) * Sau khi tìm được các từ ngữ nói về tình cảm như: yêu mến, thương yêu, kính mến, quý mến Học sinh vận dụng các từ ngữ đó để vào làm bài tập. Vậy để làm được bài tập này, đòi hỏi học sinh phải nắm chắc kiến thức về từ và câu. Học sinh phải xác định từ chính xác để điền vào chỗ trống thành câu hoàn chỉnh. Ví dụ: Cháu yêu thương ông bà - Nói chung các em hiểu bài và làm bài tập tốt, các em xác định đúng từ cần điền vào chỗ trống tương đối chính xác, nhiều em trình bày bài sạch sẽ cho nên điểm của các em khá cao. - Tuy nhiên, bên cạnh đó một số em còn chưa xác định đúng từ để điền vào bài tập, có em nắm kiến thức chưa chắc nên khi làm bài tập còn tẩy xoá rất nhiều. Nhìn một cách tổng quát thông qua bài tập này tôi thấy học sinh nắm từ tương đối chắc và điền từ vào bài tập một cách chính xác, chứng tỏ ở bài tập này các em hoàn thành nó không mấy khó khăn. Bài tập 3: Gạch một gạch dưới bộ phận câu trả lời câu hỏi Ai ? Gạch hai gạch dưới bộ phận câu trả lời câu hỏi làm gì? Mẫu: Chi / đến tìm bông cúc màu xanh a/ Cây xoà cành ôm cậu bé. b/ Em học thuộc đoạn thơ. c/ Em làm ba bài tập toán. Đáp án bài tập 3: a/ Cây / xoà cành ôm cậu bé. b/ Em / học thuộc đoạn thơ. c/ Em / làm ba bài tập toán. Kết quả điểm bài tập 3 Lớp Sĩ số Số điểm và % Điểm 9 - 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5 2D 35 12 17 6 0 (35%) (47%) (18%) (0%) * Qua bài tập 3, tôi thấy học sinh đều hiểu và nắm được bài, học sinh trình bày bài sạch đẹp, trình bày bài khoa học. Nâng cao chất lượng dạy và học luyện từ và câu ở lớp 2 Khi giới thiệu bài luyện từ và câu ở tuần 3: “Từ chỉ sự vật. Kiểu câu : Ai là gì?” Đây chính là bài học với chủ đề: Bạn bè. Giáo viên có thể hỏi: Trong tuần các em đã học những bài tập đọc nào nói về bạn bè? Sau khi học sinh trả lời, giáo viên sẽ giới thiệu: Các con đã được học những bài tập đọc nói về tình bạn. Các con có biết từ chỉ sự vật là gì không? Và muốn nói theo kiểu câu : “Ai là gì?” con sẽ nói như thế nào. Hôm nay cô sẽ cùng các con tìm hiểu về từ chỉ sự vật và kiểu câu : Ai là gì? Hoặc tôi có thể dùng tranh ảnh để giới thiệu bài nhằm gây hứng thú, tạo nhu cầu học bài ở học sinh. Ví dụ: khi dạy bài ở tuần 26: “Từ ngữ về sông biển. Dấu phẩy” Tôi đã sưu tầm một số tranh ảnh về các loài cá nước ngọt và nước mặn. Sau đó giới thiệu cho học sinh biết đây là các loài cá nhưng để biết đâu là cá nước ngọt? Đâu là cá nước mặn? Chúng ta cùng nhau tìm hiểu qua bài học hôm nay. 2. Giáo viên cần phân ra các kiểu bài trong phân môn luyện từ và câu a. Dạy bài lý thuyết về từ ở lớp 2, có những bài dạy về lý thuyết từ như : Từ và câu, từ ngữ chỉ sự vật (Danh từ), từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái (động từ), từ ngữ chỉ đặc điểm, tình cảm (tính từ) Những bài học này là tổng kết những kiến thức được rút ra từ những bài tập học sinh được làm. Khác với chương trình lớp 2 cũ, chương trình lớp 2 mới học sinh được làm bài tập sau đó mới rút ra kiến thức trọng tâm của bài. Dạy nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối tượng của hiện thực trong nhận thức được ghi lại bằng tổ hợp âm thanh xác định, để làm tăng vốn từ cho học sinh, giáo viên cần phải cung cấp những từ mới bằng những tranh ảnh, hoạt động hay lời nói mà giáo viên đưa ra. Công việc đầu tiên của dạy từ là phải làm cho học sinh hiểu nghĩa của từ, hiểu được tầm quan trọng của việc dạy nghĩa của từ và nó còn là nhiệm vụ sống còn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Muốn thực hiện được điều này người giáo viên phải hiểu nghĩa của từ, phải biết giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy, phù hợp với đối tượng học sinh. Giải nghĩa từ bằng trực quan là biện pháp giáo viên đưa vật thật, tranh ảnh giải nghĩa từ bằng trực quan chiếm vị trí quan trọng trong giải nghĩa từ ở tiểu học vì nó góp phần giúp học sinh hiểu nghĩa của từ một cách dễ dàng nhưng cách giải nghĩa này đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị khá công phu. Ví dụ: Bài “Từ chỉ sự vật” (tuần 3) giáo viên phải giải nghĩa cho học sinh các từ chỉ sự vật như : bộ đội, công nhân, cây dừa, cây mía thông qua tranh và lời nói của giáo viên. Ngoài ra, giáo viên còn phải giải nghĩa bằng ngữ cảnh, đó là đưa từ vào trong một nhóm từ, một câu, một bài để làm rõ nghĩa của từ trong ngữ cảnh. Giáo viên không cần giải thích mà nghĩa của từ tự bộc lộ trong ngữ cảnh. Ví dụ: Bài “từ và câu” (tuần 1). Giải thích từ “nhà” giáo viên có thể đưa từ nhà vào trong câu: Nơi em ở là ngôi nhà ba tầng. b. Dạy bài mở rộng vốn từ Cơ sở của việc hệ thống hoá vốn từ là sự tồn tại của từ trong ý thức con người, từ tồn tại trong đầu óc con người không phải là những yếu tố rời rạc mà là một hệ thống. Chúng được sắp xếp theo một hệ thống liên tưởng nhất định giữa các từ này
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_chat_luong_day_va_hoc_luyen_t.doc