Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh Lớp 2
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh Lớp 2
“MỘT SỐ BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG VIẾT ĐÚNG, ĐẸP CHO HỌC SINH LỚP 2” A: PHẦN MỞ ĐẦU 1/ Lí do chọn đè tài Chữ viết là một trong những công cụ giao tiếp thuận lợi và quan trọng nhất của con người. Chưa cần biết nội dung văn bản đó viết như thế nào nhưng nếu chữ viết rõ ràng, đẹp thường làm cho người đọc có cảm tình ngay. Vì vậy cố thủ tướng Phạm Văn Đồng khi nói về chữ viết đã có một câu rất ngắn gọn thể hiện quan điểm của ông: “Nết người, nét chữ” hàm hai ý vấn đề: thứ nhất nét chữ thể hiện tính cách con người; thứ hai thông qua rèn chữ viết để giáo dục tính cách con người. Chất lượng chữ viết của học sinh hiện nay là một vấn đề đang được mọi người quan tâm. Mặt khác chữ viết cũng là biểu hiện nét nhân cách của con người. Cố vấn Phạm Văn Đồng đã nói: “ Chữ viết cũng là biểu hiện của nết người. Dạy cho học sinh viết đúng, viết cẩn thận, viết đẹp cũng góp phần rèn luyện cho các em tính cẩn thận, lòng tự trọng đối với mình và bạn đọc bài vở của mình”. Trường Hiếu Thành là một trường vùng sâu của huyện. Do chưa được sù quan tâm của cha mẹ nên một số học sinh chữ viết xấu, chưa sạch sẽ. Từ những vấn đề thực tế trên, tôi đã áp dụng “Một số biện pháp rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2” và đã đạt được một số hiệu quả đáng kể. 2/ Mục tiêu nghiên cứu T×m ra mét sè biÖn ph¸p rÌn kÜ n¨ng viÕt ®óng, ®Ñp trong ph©n m«n tËp viÕt nh»m n©ng cao chÊt lượng d¹y häc m«n TiÕng ViÖt cho häc sinh líp 2. Vận dụng các nguyên tắc dạy trong phân môn chính tả, hình thành kỹ năng viết đúng chính tả cho học sinh tiểu học. 3/Nhiệm vụ nghiên cứu - Dạy cho học sinh nhận biết về cấu tạo con chữ, kích thước. - Viết đúng, viết đẹp, rõ ràng. - Đặt dấu thanh đúng vị trí. - Trình bày đẹp, viết không sai chính tả. - Nắm được quy tắc viết chính tả. 4/ Phạm vi – Đối tượng nghiên cứu - Học sinh lớp 2/3 tôi dang trực tiếp giảng dạy năm 2020 - 2021 - Là những bài tập viết, chính tả trong chương trình lớp 2 ở Tiểu học. - Trong chương trình Tiếng Việt lớp 2. 5/ Phương pháp nghiên cứu Ngoài việc học đồng nghiệp, tôi còn sử dụng các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu tài liệu - Phương pháp điều tra - Phương pháp thực nghiệm - Phương pháp quan sát - Phương pháp trò chuyện - Phương pháp thống kê - Phương pháp thu thập thông tin * Mặt khác cơ sở vật chất nhà trường cũng là yếu tố quan trọng ¶nh hưởng đến quá trình luyện viết của các em. - Nhiều học sinh ngồi sai tư thế khi viết, lưng không thẳng, mắt dí sát vào vở như các em Gia Huy, Công Định, Quốc Đại, Như Ý, Minh Thiện ...cã em cầm bút bằng 5 ngón tay như Gia Huy... - Tốc độ viết rất chậm như: Gia Huy, Công Định, Quốc Đại, Như Ý. - Chữ viết chưa đạt yêu cầu thể hiện ở một số điểm: + Chưa đúng hình dáng, cấu tạo chữ cái. + Không viết đúng quy trình viết chữ cái (điểm đặt bút chưa đúng ). + Không viết đúng độ cao các con chữ. + Chưa có kĩ năng viết liền mạch, liên kết chữ cái tạo chữ ghi tiếng. + Vị trí dấu thanh sai. * Thống kê chữ viết. Đạt yêu cầu Chưa đạt yêu cầu Các đợt kiểm tra ( Chữ đẹp, đúng mẫu) ( Chữ viết chưa đúng mẫu) SL % SL % Đầu năm 13 52 12 48 Với kết quả như trên tôi đã suy nghĩ ®Ó t×m ra các biện pháp để rèn ch÷ viÕt cho học sinh như sau: 3. Giải pháp thực hiện Biện pháp 1 : Phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ. Ngay từ đầu năm học tôi đã cho kiểm tra chữ viết của các em. Tôi xem xét kỹ để phân loại chữ viết của học sinh theo các mức độ khác nhau. Từ đó tôi lên kế hoạch để sửa “ lỗi”cho từng em VD: Những em có điểm đặt bút chưa đúng tôi chỉ bảo cho các em cách tính dòng kẻ, xác định điểm đặt bút Những em viết chưa thẳng tôi có kế hoạch cho luyện nét sổ thẳng, chữ chưa tròn tập viết nét cong tròn Nhờ vậy các em đã nhớ lại được quy trình viết từng con chữ, biết luyện dần từng chữ. Dần dần kết quả đã tốt hơn rất nhiều Biện pháp 2 : Rèn tư thế viết đúng cho học sinh. Tôi nhận thấy khi học sinh ngồi viết đúng tư thế sẽ là điều kiện thuận lợi cho các em viết đúng, viết đẹp. Mặt khác việc làm đó cũng góp phần để phòng học sinh mắc bệnh cận thị khi căn bệnh này ngày một gia tăng trong nhà trường phổ thông hiện nay. Tôi đã hướng dẫn các em như sau: * Tư thế ngồi viết: Học sinh ngồi ngay ngắn, không tì ngực vào bàn, đầu hơi cúi, hai mắt cách vở từ 25cm – 30cm. Cánh tay trái đặt trên mặt bàn bên trái vở, bàn tay trái tì vào mép vở giữ vở không xê dịch khi viết. Cánh tay phải để ở trên mặt bàn Cách cầm bút: Khi viết học sinh cầm bút và điều khiển bút bằng ba ngón tay (ngón trỏ, ngón cái và ngón giữa của bàn tay phải). Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón cái giữ bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào cạnh đốt đầu ngón tay giữa. * Vị trí đặt vở: Vở đặt nghiêng so với mép bàn một góc khoảng 30 độ nghiêng về phía bên phải. Để học sinh có kĩ năng trên, tôi đã làm một số công việc sau: - Giáo viên treo tranh mẫu tư thế ngồi viết và cách cầm bút trong phòng học ở lớp, đồng thời thu nhỏ các hình ảnh này trên một trang giấy, phát cho từng học sinh kẹp trong vở tập viết của mình để đánh dấu trang cần viết và luôn quan sát được khi viết (*) Trường hợp 1: nét móc cuối cùng của chữ cái trước nối với nét móc hoặc nét hất đầu tiên của chữ cái sau: VD: a – n = an; i – m = im; t – ư = tư... Nhìn chung trường hợp này viết dễ dàng thuận lợi Lưu ý học sinh: Khi nối 2 nét móc ở hai chữ cái, cần điều tiết về độ doãng (khoảng cách giữa 2 chữ cái) sao cho vừa phải, hợp lý để chữ viết đều nét và có tính thẩm mĩ. (*) Trường hợp 2: Nét cong cuối cùng của chữ cái sau với nét móc (hoặc nét hất) đầu tiên của chữ cái sau VD: e - m = em; c – ư = cư... Trường hợp nối chữ này cũng tương đối dễ dàng. Lưu ý: Điều chỉnh khoảng cách giữa hai chữ cái sao cho không gần quá hay xa quá (VD: em,cư...) Hoặc chuyển hướng ngßi bút ở cuối nét cong (kín) để nối sang nét móc (hoặc nét hất) sao cho hình dạng hai chữ cái vẫn rõ ràng, khoảng cách hợp lý (VD ơn, oi...) (*) Trường hợp 3: Nét móc (hoặc nét khuyết) của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau (VD: a – c = ac, h – o = ho, y – ê = yê...) đây là trường hợp nối chữ tương đối khó, vừa đòi hỏi kỹ thuật lia bút vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách sao cho vừa phải, hợp lý. Lưu ý học sinh: + Xác định điểm kết thúc (dùng bút) ở chữ cái trước để lia bút viết tiếp chữ cái sau sao cho liền mạch tạo thành một khối các chữ cái. + Điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ cái trước hơi doãng rộng một chút để khi viết tiếp chữ cái sau sẽ có khoảng cách vừa phải (không gần quá) VD: Khi hưíng dÉn häc sinh viÕt vần “ao”, gi¸o viªn lưu ý nh¾c HS điều chỉnh phần cuối nét móc của chữ a để khi viết tiếp chữ cái o sẽ có khoảng cách giữa a và o không gần quá (bằng khoảng cách giữa a và i (ai). (*) Trường hợp 4: Nét cong của chữ cái trước nối với nét cong của chữ cái sau VD: o – e = oe; o – a = oa; x- o = xo... Đây là trường hợp nối chữ khó nhất vừa đòi hỏi các kỹ thuật rê bút, lia bút, chuyển hướng bút để tạo nét nối vừa yêu cầu việc ước lượng khoảng cách hợp lý, trên cơ sở thói quen và kĩ năng viết khá thành thạo cña häc sinh. Lưu ý học sinh trêng hîp viÕt ch÷ oe, oa.: + Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o xuống để gặp điểm bắt đầu của chữ cái e sao cho nét vòng ở đầu chữ cái không được to quá (oe). Rê bút từ điểm cuối của chữ cái o sang ngang rồi lia bút viết tiếp chữ cái a (oa). Ngoài ra tôi còn hướng dẫn các em cách viết liền mạch. Viết liền mạch là viết tất cả các hình cơ bản của chữ cái trong một chữ ghi tiếng rồi sau đó mới đặt dấu (kể cả dấu phụ của con chữ) và dấu ghi thanh. VD Viết chữ ruộng: Viết chữ liền mạch các hình cơ bản của chữ cái thành ruong sau đó đặt dấu mũ (dấu phụ) trên 0 và dấu nặng (dấu thanh) dưới ô để thành ruộng. Như vậy, với việc phân tích cách liên kết, cách viết liền mạch ngay từ những bài viÕt đầu tiªn, nhiều học sinh trong lớp đã nắm được quy trình viết c¸c tõ ứng dụng. ë các bài tiếp theo, không cần sự hướng dẫn tỉ mỉ của cô giáo c¸c em còng cã thÓ viÕt ®óng ch÷ theo mÉu. Tốc độ viết chữ của cả lớp nhanh dần. Chính vì vậy chất lượng học tập cña häc sinh m«n TiÕng ViÖt được nâng lên một cách rõ rệt. Tập viết là một phân môn thực hành. Ngoài việc nắm được kĩ thuật viết chữ học sinh phải được luyện tập nhiều lần để hình thành kĩ năng, kĩ xảo. Vì thế việc luyện chữ viết cho học sinh là rất quan trọng. Kinh nghiệm rèn kĩ năng viết đúng, đẹp cho học sinh lớp 2 của tôi có những ưu điểm và hạn chế. Tuy nhiên khi được áp dụng ở lớp thì sự tiến bộ của các em được đồng nghiệp đánh giá cao. Do đó những lần sinh hoạt chuyên môn tổ khối tôi mạnh dạn đưa ra ý kiến cùng chia sẻ với các thành viên trong khối 2 – 3 các đồng nghiệp đã áp dụng những giải pháp, những kinh nghiệm của tôi vào giảng dạy ở lớp mình, thì kết quả ở các lớp của đồng nghiệp cũng có nhiều tiến bộ, đạt kết quả cao 1. Bùi Ngọc Trí – giáo viên lớp 2/1............................... 2.Nguyễn Thị Kim Lài – giáo viên lớp 2/4.. 3. Nguyễn Hữu Thông – giáo viên lớp 2/5 C. KẾT LUẬN – ĐỀ XUẤT 1.Kết luận Để việc rèn luyện cho học sinh lớp 2 có thể viết đúng, đẹp là một công việc hết sức bền bỉ, kiên trì của cả thầy và trò. Kinh nghiệm mà bản thân tôi rút ra được trong quá trình áp dụng các biện pháp đã nêu là: - Nắm bắt kịp thời các văn bản hướng dẫn chỉ đạo. - Phối hợp với CMHS để có thông tin trao đổi kịp thời. -Trẻ tiểu học hiếu động thiếu kiên trì. Vì vậy, người giáo viên cần có sự chu đáo, tận tình hưíng dẫn, rèn, sửa chữ viết cho các em. - Luôn nhắc nhở học sinh viết đúng mẫu, nhanh, đẹp ở tất cả các môn học. - Tạo được không khÝ vui vẻ, phấn chấn cho trẻ khi viết. - Bản thân giáo viên cũng phải luyện chữ, bëi ch÷ mÉu cña c« còng lµ mét gi¸o cô trùc quan ®Ó häc sinh noi theo. - Có kế hoạch rèn chữ, coi rèn chữ là yếu tố quan trọng để rèn nết người . 2. Đề xuất - Mong các cấp lãnh đạo quan tâm hơn nữa đến việc mở rộng tổ chức phong trào thi viết chữ đẹp, có phần thưởng động viên xứng đáng. - Tăng cường mở chuyên đề rèn luyện chữ viết cho học sinh. - Bàn ghế cải tiến cho phù hợp với từng khối lớp mặt bàn hơi nghiêng để học sinh ngồi viết thẳng lưng. Trên đây là một số biện pháp và kết quả bước đầu khá khả quan của tôi trong viÖc giảng dạy môn tiếng Việt nói chung và việc dạy tập viết nói riêng cho học sinh lớp 2 năm học 2020-2021. Rất mong sự đóng góp, xây dựng ý kiến của các bạn đồng nghiệp, của ban giám hiệu và của các cấp lãnh đạo ®Ó t«i cã chuyªn m«n vững vàng và tự tin hơn trong giảng d¹y. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Hiếu Thành ngày 20 tháng 2 năm 2021 Người viết Võ Văn Ngọc
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_viet_dung.doc